trái phiếu DN – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com Trang thông tin kinh doanh & khởi nghiệp Mon, 09 Dec 2024 21:39:35 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhdoanhkhoinghiep/2025/08/kinhdoanhkhoinghiep.svg trái phiếu DN – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com 32 32 “Gỡ khó” trái phiếu doanh nghiệp – Cần có chương trình “hoãn nợ” quốc gia https://kinhdoanhkhoinghiep.com/go-kho-trai-phieu-doanh-nghiep-can-co-chuong-trinh-hoan-no-quoc-gia/ Tue, 14 Feb 2023 08:23:29 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=7446 Để tránh hiệu ứng đổ vỡ dây chuyền với trái phiếu doanh nghiệp, trước áp lực đáo hạn ngày càng gia tăng, chuyên gia cho rằng, cần có chương trình hoãn nợ quy mô quốc gia trong vòng 1-2 năm…]]>

Để tránh hiệu ứng đổ vỡ dây chuyền với trái phiếu doanh nghiệp, trước áp lực đáo hạn ngày càng gia tăng, chuyên gia cho rằng, cần có chương trình hoãn nợ quy mô quốc gia trong vòng 1-2 năm…

>> “Khơi dòng” trái phiếu doanh nghiệp: Cần kết hợp các giải pháp ngắn và dài hạn

Thống kê từ Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) cho thấy, trong năm 2022 đã có 420 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, với trị giá xấp xỉ 244.565 tỷ đồng, chiếm 96% tổng giá trị phát hành, giảm 66% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, nhóm ngân hàng dẫn đầu về giá trị phát hành với tổng giá trị 136.772 tỷ đồng, chiếm 53,6% tổng giá trị phát hành. Kỳ hạn phát hành bình quân của nhóm này là 5,47 năm, lãi suất phát hành trung bình là 5,48%/năm. Tiếp đến là nhóm bất động sản với 51.979 tỷ đồng, chiếm khoảng 20,4%. So với năm 2021 (hơn 214.000 tỷ đồng), lượng trái phiếu do nhóm doanh nghiệp địa ốc phát hành sụt giảm gần 76%.

Áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tới được cho ngày một gia tăng - Ảnh minh họa: ITN

Áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tới được cho ngày một gia tăng – Ảnh minh họa: ITN

Đáng nói, dù năm 2022, các doanh nghiệp đã mua lại 210.830 tỷ đồng (tăng 46% so với năm 2021), thế nhưng, năm 2023, sẽ có khoảng 289.819 tỷ đồng trái phiếu đáo hạn. Chỉ tính riêng tháng đầu năm, có khoảng 17.500 tỷ đồng trái phiếu đáo hạn; trong đó 10.500 tỷ đồng trái phiếu bất động sản, chiếm 60% giá trị trái phiếu doanh nghiệp và 5.900 tỷ đồng trái phiếu xây dựng, chiếm 34%.

Từ thực tế đã nêu, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm FiinRatings đánh giá, áp lực đáo hạn trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản vẫn duy trì ở mức đáng kể trong năm 2023 với hơn 119.000 tỷ đồng và năm 2024 gần 112.000 tỷ đồng. Tổ chức này kỳ vọng các biện pháp tái cấu trúc nợ sẽ được thực hiện sớm, nhất là các trái phiếu được phân phối thứ cấp đến nhà đầu tư cá nhân.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng nhận định, trong năm 2023, các doanh nghiệp bất động sản sẽ gặp nhiều áp lực đáo hạn trái phiếu, thậm chí tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ trái phiếu dây chuyền nếu không có giải pháp phù hợp, kịp thời.

>> “Khơi dòng” trái phiếu doanh nghiệp: Cần bổ sung quy định ưu tiên thanh toán

Chuyên gia cho rằng, cần có chương trình hoãn nợ quy mô quốc gia trong vòng 1-2 năm để tránh sự đổ vỡ dây chuyền của các doanh nghiệp - Ảnh minh họa: ITN

Chuyên gia cho rằng, cần có chương trình hoãn nợ quy mô quốc gia trong vòng 1-2 năm để tránh sự đổ vỡ dây chuyền của các doanh nghiệp – Ảnh minh họa: ITN

Thông tin với báo chí, ông Nguyễn Văn Thân – Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, những điểm nghẽn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp cần được giải quyết càng sớm càng tốt.

Theo ông Thân, có thể chia các doanh nghiệp có vấn đề về trái phiếu làm 3 loại: Doanh nghiệp có những vấn đề quá lớn, không thể “cứu” được nữa thì đành chịu; Doanh nghiệp đang làm ăn đàng hoàng thì cần tạo điều kiện về thể chế để họ có thể huy động trái phiếu một cách bình thường; Và đông nhất là các doanh nghiệp dạng “nhờ nhờ”, đang khó khăn vì đến kỳ đáo hạn mà không trả được.

“Với doanh nghiệp thứ ba thì Nhà nước và doanh nghiệp cần ngồi lại với nhau để nói hết những vấn đề nội tại của doanh nghiệp xem có hướng nào tháo gỡ không và tháo gỡ như thế nào?”, ông Thân khuyến nghị.

Để giải quyết vấn đề của thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện nay, TS. Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia tài chính – ngân hàng cho rằng, Chính phủ nên có chương trình “hoãn nợ”. Đây là một chương trình hoãn nợ quốc gia dành cho các doanh nghiệp làm ăn bài bản đúng với quy định của pháp luật được hoãn nợ trong vòng 1-2 năm. Bên cạnh đó, trong thời gian hoãn nợ, các nhà đầu tư, các trái chủ không được đưa họ ra tòa để khởi kiện, để tòa án áp dụng Luật Phá sản.

“Chính phủ cần phải có những biện pháp mạnh như vậy để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp”, TS. Hiếu đề xuất.

Theo TS. Hiếu, thực tế Nghị định 65/2022 cũng có điều khoản cho phép các doanh nghiệp có thể hoãn nợ trong vòng 2 năm nếu đạt được sự thỏa thuận với các trái chủ, nhà đầu tư. Tuy nhiên, thỏa thuận như vậy vẫn còn rất nhiều bất định bởi vẫn có trường hợp các nhà đầu tư không chịu cho hoãn nợ. Chính vì vậy, Chính phủ cần phải có giải pháp mang tính quốc gia, đưa ra chương trình hoãn nợ quốc gia cho doanh nghiệp làm ăn bài bản trong vòng 1-2 năm. Đáng chú ý, cần làm ngay việc bắt buộc xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, chứ không nên để đến năm 2024 (như Dự thảo Nghị định 65/2022 sửa đổi đang đề xuất).

Cùng với những giải pháp đã nêu, để gỡ khó cho doanh nghiệp trước áp lực đáo hạn trái phiếu, một số ý kiến cũng cho rằng, trước mắt, các doanh nghiệp nên xem xét lại tài sản, nguồn vốn của mình còn những gì. Đồng thời, thỏa thuận với trái chủ để đưa ra giải pháp phù hợp. Nếu còn nguồn lực thì doanh nghiệp cần tìm cách như bán tài sản, thanh lý hàng tồn kho… để có tiền đáo hạn trái phiếu.

Ngoài ra, doanh nghiệp có thể thỏa thuận với trái chủ như gia hạn với lãi suất mới, chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu hoặc các sản phẩm, tài sản khác, chuyển đổi thành hợp đồng hợp tác đầu tư… Nếu trong trường hợp nhà đầu tư không chấp thuận thì các doanh nghiệp phải thanh toán theo quy định của pháp luật.

Trước đó, tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 5, các chuyên gia cũng cho biết, trong giai đoạn 2023-2025 sẽ có khoảng 700.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp (chưa tính tiền lãi) đến thời kỳ đáo hạn. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn tiền của các doanh nghiệp đang gặp khó khăn do thanh khoản của các dự án bất động sản “án binh bất động”. Đồng thời cảnh báo, nếu không có chính sách hỗ trợ, nguy cơ vỡ nợ đối với các nhà phát hành trái phiếu sẽ sớm trở thành hiệu ứng dây chuyền.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Thị trường TPDN chờ “cú hích” chính sách https://kinhdoanhkhoinghiep.com/thi-truong-tpdn-cho-cu-hich-chinh-sach/ Tue, 14 Feb 2023 08:23:27 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=7484 Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn đang chờ cú hích từ việc sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP.]]>

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn đang chờ cú hích từ việc sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP.

p/Tỷ trọng phát hành TPDN riêng lẻ và công chúng tháng 12/2022.p/ĐVT: Tỷ VND

Tỷ trọng phát hành TPDN riêng lẻ và công chúng tháng 12/2022. ĐVT: Tỷ VND

>“Gỡ khó” trái phiếu doanh nghiệp – Cần có chương trình “hoãn nợ” quốc gia

Báo cáo của FiinGroup ghi nhận tổng giá trị phát hành TPDN tháng 12/2022 đạt 4,09 nghìn tỷ VND qua 13 đợt phát hành. Quy mô phát hành tuy tăng 2,4 lần so với tháng 11 nhưng chỉ đạt 2,89% giá trị so với cùng kỳ năm trước. 

Phần lớn giá trị phát hành đến từ 3 lô trái phiếu của ngân hàng BIDV có lãi suất trong khoảng 8,5%-9,1% và tổng giá trị đạt 3,47 nghìn tỷ VNĐ.

Bên cạnh đó, thị trường cũng ghi nhận các lô trái phiếu từ nhóm ngành Bất động sản và Lĩnh vực khác. 

Bên cạnh đó, thị trường cũng ghi nhận các lô trái phiếu từ nhóm ngành bất động sản và các lĩnh vực khác. Trong đó, 2 doanh nghiệp bất động sản ghi nhận phát hành thành công, cụ thể là Nam Long, vốn đã có đối tác tài chính lớn IFC. Ngoài ra là Công ty Phát triển Nhà Bà Rịa Vũng Tàu.

Dược phẩm Tenamyd, công ty của vợ chồng siêu mẫu Vũ Cẩm Nhung, đáng chú ý có 6 đợt phát hành trái phiếu lãi suất khá cao (14%). Các đợt phát hành không công bố thông tin về trái chủ, mục đích phát hành, tài sản bảo đảm (nếu có)… tuy nhiên vẫn thành công là một “điểm sáng lạ” trong bối cảnh trái chủ trên thị trường vô cùng “kén” hàng hóa, vì nhu cầu huy động của các doanh nghiệp rất cao nhưng người mua sẵn sàng xuống tiền trái phiếu lại rất kỹ càng, như hiện tại.

“Thị trường trái phiếu tập trung vào các thay đổi về Nghị định 65/2022. Cụ thể, Dự thảo sửa đổi Nghị định này cho thấy nhiều điều kiện sẽ được lùi thời điểm áp dụng sang năm 2024, cũng như cho phép thay đổi thời hạn và hoán đổi với các trái phiếu còn dư nợ trên thị trường. Từ đó, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể sẽ phần nào giảm áp lực đạt chuẩn cũng như có thêm thời gian thích nghi và chuẩn bị”, các chuyên gia FiinGroup đánh giá.

Tuy nhiên đến hết tháng 1/2023, Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022 vẫn chưa được xem xét ban hành. Trong khi chờ cú hích để dòng tiền quay lại thị trường này, các doanh nghiệp vẫn sẽ đối mặt khó khăn từ áp lực lượng trái phiếu phải đáo hạn năm 2023.

>> Trình Chính phủ sửa NĐ 65 để “cứu” thị trường trái phiếu

Ước tính của nhóm phân tích Công ty Chứng khoán KB (KBSV) là trong năm 2023, giá trị TPDN bất động sản đến hạn là 120.400 tỷ đồng. Áp lực trả gốc và lãi trái phiếu trong bối cảnh hạn chế tín dụng cùng với mở bán dự án chậm có thể ảnh hưởng đến thanh khoản của các chủ đầu tư, tác động lớn đến thanh khoản chung của thị trường.

Tại Chỉ thị số 03 ban hành ngày 27/1, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính sớm trình Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022. Hy vọng ngay trong tháng 2/2023, sẽ có cú hích chính sách để thị trường chuyển đổi trạng thái và hút dòng tiền trở lại.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
“Khơi dòng” trái phiếu doanh nghiệp: Kỳ vọng từ Dự thảo Nghị định 65 sửa đổi https://kinhdoanhkhoinghiep.com/khoi-dong-trai-phieu-doanh-nghiep-ky-vong-tu-du-thao-nghi-dinh-65-sua-doi/ Tue, 14 Feb 2023 08:23:04 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=7820 Với hàng loạt khuôn khổ pháp lý được đề xuất, Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP được cho sẽ là giải pháp kịp thời giúp “khơi dòng” thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN)…]]>

Với hàng loạt khuôn khổ pháp lý được đề xuất, Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP được cho sẽ là giải pháp kịp thời giúp “khơi dòng” thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN)…

>> “Gỡ khó” trái phiếu doanh nghiệp – Cần có chương trình “hoãn nợ” quốc gia

Thời gian qua, mặc dù một số doanh nghiệp có dư nợ TPDN lớn đã đưa ra các phương án xử lý nợ thông qua nghiệp vụ chuyển nhượng tài sản, phát hành riêng lẻ cho đối tác chiến lược, hay huy động vốn vay nước ngoài… Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đây chỉ là giải pháp tình thế, khó mang lại hiệu quả như mong đợi, do giá trị đáo hạn TPDN trong năm 2023 hiện vẫn ở mức cao gần 350.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 1/4 tín dụng tăng thêm), trong đó, đáo hạn TPDN bất động sản ước khoảng 130.000 tỷ đồng (tương đương 9% tín dụng tăng thêm).

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ phục hồi sau những đề xuất sửa đổi từ Nghị định 65/2022 - Ảnh minh họa: Economy

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ phục hồi khi các đề xuất tại Dự thảo Nghị định 65/2022 sửa đổi được ban hành – Ảnh minh họa: Economy

Thực tế, chỉ tính riêng trong tháng đầu tiên của năm 2023, doanh nghiệp bất động sản đã phải thanh toán 10.500 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 60% giá trị TPDN đến hạn), và doanh nghiệp xây dựng phải thanh toán 5.900 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 34% giá trị TPDN đến hạn). Đáng nói, nếu tính cả năm 2024, giai đoạn 2023-2024 được coi là đỉnh đáo hạn TPDN với khối lượng đáo hạn lên tới gần 700.000 tỷ đồng.

Trước thực tế đã nêu, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương trình Chính phủ Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 65/2022/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ. Và mới đây, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ các nội dung như: hoãn thực hiện quy định tại Nghị định 65/2022 về xác định tư cách nhà đầu tư chuyên nghiệp trong vòng 1 năm; kéo dài thời gian với quy định yêu cầu xếp hạng tín nhiệm; cho phép doanh nghiệp được thay đổi kỳ hạn, hoán đổi trái phiếu đã phát hành;…

Đồng thời, đề nghị bổ sung thêm thông tin số lượng các nhà đầu tư đáp ứng được tất cả điều kiện về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, số lượng các nhà đầu tư đáp ứng được tất cả điều kiện về nhà đầu chuyên nghiệp, nhưng chưa đáp ứng được quy định về thời gian danh mục nắm giữ 180 ngày, thì điều chỉnh xuống còn 90 ngày.

>> “Khơi dòng” trái phiếu doanh nghiệp: Cần kết hợp các giải pháp ngắn và dài hạn

Đặc biệt, việc giãn thời gian thực hiện quy định xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong vòng 1 năm là tích cực cho thị trường - Ảnh minh họa: ITN

Đặc biệt, việc giãn thời gian thực hiện quy định xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là tích cực cho thị trường – Ảnh minh họa: ITN

Đề xuất này của Bộ Tài chính ngay lập tức nhận được sự quan tâm của giới đầu tư, bởi, hiện tại có nhiều nhà đầu tư dưới chuẩn đang mua TPDN. Trong khi, theo quy định của Nghị định 65/2022 hiện hành, rất nhiều nhà đầu tư sẽ không đủ chuẩn chuyên nghiệp khiến sức hấp dẫn của thị trường TPDN đã suy giảm đáng kể khi niềm tin của nhà đầu tư bị ảnh hưởng. Và đây cũng được cho là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư cá nhân đẩy mạnh bán tháo trên thị trường chứng khoán trong năm 2022.

Thực tế thống kê cho thấy, trong năm 2022, nhà đầu tư cá nhân đã bán ròng 26.000 tỷ đồng, sau khi mua ròng hơn 58.000 tỷ đồng trong 2021.

Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, việc sửa đổi Nghị định 65/2022 được cho sẽ giúp nhà đầu tư bớt đi nỗi lo về thời hạn “deadline”, giúp thị trường trái phiếu có thời gian đủ dài để thích nghi với quy định mới. Đồng thời, đề xuất lùi thời hạn áp dụng tiêu chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng được cho là giải pháp “dọn đường” cho việc gia hạn/giãn nợ, tạo điều kiện để những nhà đầu tư dưới chuẩn tiếp tục được mua trái phiếu mới để doanh nghiệp đảo nợ.

Theo đánh giá của các chuyên gia, những đề xuất sửa đổi trong Dự thảo Nghị định 65/2022, đặc biệt là việc bổ sung thêm thông tin số lượng các nhà đầu tư đáp ứng được tất cả điều kiện về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, số lượng các nhà đầu tư đáp ứng được tất cả điều kiện về nhà đầu chuyên nghiệp, nhưng chưa đáp ứng được quy định về thời gian danh mục nắm giữ 180 ngày, thì điều chỉnh xuống còn 90 ngày, phù hợp với bối cảnh thị trường, khi hiện tại có hơn 60% là nhà đầu tư cá nhân.

Thông tin với báo chí, ông Huỳnh Minh Tuấn – Nhà sáng lập Công ty cổ phần FIDT đánh giá, việc giãn thời gian thực hiện quy định xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong vòng 1 năm là tích cực cho thị trường. Bởi Nghị định 65/2022 đã làm giảm số lượng nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp kéo theo giảm lượng cầu.

“Đây là một bước hợp lý và cần thiết để vực dậy thị trường trái phiếu. Dự thảo sửa đổi cũng làm dễ dàng hơn điều kiện phát hành, gỡ khó một phần thanh khoản cho các doanh nghiệp bất động sản. Thời gian tới, làn sóng mua lại trái phiếu sẽ hạ nhiệt và áp lực đáo hạn trái phiếu cũng nhẹ nhàng hơn. Thứ hai, việc giãn thời gian phân phối trái phiếu sang 01/01/2024 sẽ giúp doanh nghiệp và các công ty chứng khoán “dễ thở” hơn và tăng khả năng thành công của các đợt phát hành trái phiếu”, ông Tuấn chia sẻ.

Còn ông Đỗ Bảo Ngọc – Phó Tổng Giám đốc Công ty Chứng khoán kiến thiết Việt nam kỳ vọng, các đề xuất trong Dự thảo sửa đổi Nghị định 65/2022 sẽ kịp thời tháo gỡ khó khăn, vực dậy thị trường trái phiếu trong năm 2023.

Theo ông Ngọc, Dự thảo này sẽ hoãn và giãn nhiều điều kiện rất chặt chẽ của Nghị định 65/2022, qua đó tạo thêm thời gian và không gian để thị trường trái phiếu vẫn hoạt động tốt trong năm 2023, hỗ trợ nhiều thanh khoản cho các doanh nghiệp, đang muốn phát hành trái phiếu mà có tài sản tốt như hiện tại.

“Việc Dự thảo sửa đổi Nghị định 65/2022 được phê duyệt sẽ giúp cải thiện thanh khoản của thị trường trái phiếu, đồng thời gia tăng giá trị phát hành trái phiếu trong thời gian tới, giúp nhiều doanh nghiệp được hỗ trợ về nguồn vốn”, ông Đỗ Bảo Ngọc kỳ vọng.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Triển vọng vốn cho bất động sản và bài học từ Trung Quốc https://kinhdoanhkhoinghiep.com/trien-vong-von-cho-bat-dong-san-va-bai-hoc-tu-trung-quoc/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:32 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8213 Chuyên gia Phan Lê Thành Long nhìn nhận, tín dụng dành cho ngành bất động sản sẽ vẫn có, nhưng chỉ dành cho các dự án có khả năng hoàn thành, với những phân khúc nhà ở thực sự.]]>

Chuyên gia Phan Lê Thành Long nhìn nhận, tín dụng dành cho ngành bất động sản sẽ vẫn có, nhưng chỉ dành cho các dự án có khả năng hoàn thành, với những phân khúc nhà ở thực sự.

>> Mở rộng room tín dụng bất động sản

Còn nhiều khó khăn

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tổ chức Hội nghị về tín dụng bất động sản với nhiều điểm quan trọng.

Làm cách nào để các doanh nghiệp triển khai tiếp trong khi không xoay xở được dòng tiền, đặc biệt, các doanh nghiệp bất động sản niêm yết có hàng tồn kho tăng rất mạnh?

Làm cách nào để các doanh nghiệp BĐS triển khai tiếp dự án trong khi không xoay xở được dòng tiền, đặc biệt, các doanh nghiệp bất động sản niêm yết có hàng tồn kho tăng rất mạnh?

Theo đó, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng yêu cầu các tổ chức tín dụng nỗ lực tối đa tiết giảm chi phí hoạt động để có dư địa phấn đấu giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, trong đó có người mua nhà và các dự án bất động sản đã hoàn thiện thủ tục pháp lý, có khả năng trả nợ, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Tập trung nguồn vốn tín dụng vào các dự án, phương án vay vốn khả thi, đảm bảo tính pháp lý, các dự án có khả năng hoàn thành, sớm đi vào sử dụng, có khả năng tiêu thụ tốt, có khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực về nhà ở…

Chia sẻ quan điểm của mình về vốn cho bất động sản, ông Phan Lê Thành Long – Chuyên gia tài chính cho biết, có một câu chuyện chúng ta có thể để ý là, đến cuối năm 2022, giá trị hàng tồn kho là quỹ đất và các dự án xây dựng dở dang lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng. Vậy làm cách nào để các doanh nghiệp triển khai tiếp trong khi không xoay xở được dòng tiền, đặc biệt, các doanh nghiệp bất động sản niêm yết có hàng tồn kho tăng rất mạnh.

Phần lớn, hàng tồn kho của doanh nghiệp bất động sản hiện nay là ở dạng dự án trong giai đoạn đầu, nghĩa là giai đoạn giải phóng mặt bằng chưa đi vào triển khai xây dựng. Trong khi đó, các doanh nghiệp bất động sản huy động vốn rất lớn, nhất là vốn tín dụng trái phiếu và đi thâu tóm các quỹ đất.

Khi các dự án ở giai đoạn đầu có quỹ đất sạch, đủ đảm bảo thực hiện dự án nhà ở thương mại, bất động sản thương mại, kể cả các dự án bất động sản dịch vụ, nhưng cũng sẽ cần rất nhiều thời gian và gặp nhiều vấn đề về pháp lý để hoàn thành.

Chúng ta cần nhìn vào thực trạng như vậy để thấy, dự án mới muốn triển khai thì phải bố trí nguồn vốn mới, trong đó chỉ có hai nguồn là: Thứ nhất, nguồn vốn chủ – từ thị trường chứng khoán, nhưng với bối cảnh thị trường chứng khoán hiện nay sẽ là rất khó cho lĩnh vực bất động sản.

Thứ hai, là nguồn tín dụng chỉ giải ngân với các dự án đang triển khai dở dang để có thể hoàn thành.

“Với cấu trúc hàng tồn kho của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết, phần lớn là các dự án giai đoạn đầu sẽ rất khó huy động tín dụng. Khi đã khó huy động ở cả vốn chủ và vốn tín dụng, thì để triển khai các dự án trong năm 2023 này sẽ còn vô cùng khó khăn với các doanh nghiệp, thậm chí kéo dài sang năm 2024 trước diễn biến đáo hạn trái phiếu cùng nhiều vấn đề khác.

Vì vậy, câu chuyện có tăng room tín dụng cho ngành bất động sản hay không đã được NHNN trả lời rất rõ tại Hội thảo mới đây, rằng NHNN không có room tín dụng cho từng ngành”, ông Long phân tích.

Cũng theo vị chuyên gia, năm 2022 room tín dụng không thiếu, đặc biệt vào quý 4/2022 NHNN có nới room cho một số ngân hàng, nhưng hạn mức tín dụng tổng thể không thay đổi. Do đó, không có room tín dụng cho ngành bất động sản mà chỉ có hạn mức tín dụng chung cho toàn nền kinh tế và năm 2023 cũng tương tự.

Đối với các doanh nghiệp bất động sản, sẽ quay trở lại câu chuyện các dự án có phục vụ cho nhu cầu thật hay không, có là dự án cần thêm thanh khoản để hoàn thành và đưa vào vận hành sử dụng hay không?

“NHNN đã nhấn mạnh “không siết chặt tín dụng vào bất động sản”, tuy nhiên chúng ta phải hiểu rằng, tín dụng dành cho ngành bất động sản vẫn có nhưng chỉ dành cho các dự án có khả năng hoàn thành, với những phân khúc nhà ở thật, còn những phân khúc cao cấp, thổi giá, mang tính đầu cơ lướt sóng thì các hệ số rủi ro vẫn được áp dụng.

Trong giai đoạn này, với những người có vốn không sử dụng đòn bẩy, có nhu cầu đầu tư dài hạn, đầu tư vào giá trị thật, không lướt sóng đâu cơ thì bất động sản thời điểm này sẽ là cơ hội”, chuyên gia khuyến nghị.

>> “Nắn” chứ không nên “siết” dòng vốn tín dụng bất động sản

Bài học từ Trung Quốc

Nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc, quốc gia này đang soạn thảo một kế hoạch hành động toàn diện để hỗ trợ các nhà phát triển bất động sản gặp khó khăn với khoản tài trợ 450 tỷ Nhân dân tệ (67 tỷ USD), khi Bắc Kinh ưu tiên củng cố thị trường nhà ở như một trong những trụ cột chính của tăng trưởng kinh tế.

Theo JPMorgan, khoảng 50 nhà phát triển Trung Quốc đã vỡ nợ đối với khoản trái phiếu nước ngoài trị giá khoảng 100 tỷ USD trong hai năm qua

Theo JPMorgan, khoảng 50 nhà phát triển Trung Quốc đã vỡ nợ đối với khoản trái phiếu nước ngoài trị giá khoảng 100 tỷ USD trong hai năm qua

Theo Tân Hoa Xã, các cơ quan quản lý tài chính hàng đầu đã soạn thảo một gói gồm 21 nhiệm vụ chính, giúp giảm bớt tình trạng khủng hoảng thanh khoản trên thị trường bất động sản. Kế hoạch này nhằm tăng tốc độ cho vay 150 tỷ Nhân dân tệ trong các khoản vay đã công bố trước đó, tập trung vào việc giao nhà và thành lập quỹ đặc biệt trị giá 200 tỷ Nhân dân tệ để giao tài sản cho người dân. Nước này cũng sẽ triển khai kế hoạch hỗ trợ 100 tỷ Nhân dân tệ cho các khoản vay mua nhà cho thuê.

“Mục tiêu là hướng bảng cân đối của các nhà phát triển chất lượng tốt trở lại phạm vi an toàn và đưa ngành bất động sản chuyển sang một mô hình kinh doanh mới suôn sẻ hơn”, Tân Hoa xã cho biết.

Đáng chú ý, các cơ quan quản lý sẽ nới lỏng hạn chế vay mượn theo chính sách “ba lằn ranh đỏ” đối với 30 công ty bất động sản thí điểm, nhưng không nêu tên cụ thể. Tuy nhiên, kế hoạch cũng đề cập đến một số tiêu chí như, các nhà phát triển có quy mô tương đối lớn, các dự án nằm rải rác ở các khu vực khác nhau và tầm quan trọng mang tính hệ thống.

Chính sách “ba lằn ranh đỏ” được triển khai vào tháng 8/2021, hạn chế số tiền vay mới mà các nhà phát triển bất động sản có thể huy động mỗi năm bằng cách đặt giới hạn cho tỷ lệ nợ của họ. Đây được coi là động lực chính đẩy nhiều nhà phát triển Trung Quốc đến bờ vực phá sản. Theo JPMorgan, khoảng 50 nhà phát triển Trung Quốc đã vỡ nợ đối với khoản trái phiếu nước ngoài trị giá khoảng 100 tỷ USD trong hai năm qua.

Kế hoạch làm việc mới được đưa ra sau khi chính quyền trung ương can thiệp mạnh mẽ, để hỗ trợ các nhà phát triển đang gặp khó khăn trước nỗ lực ngăn chặn đà rơi tự do của thị trường vào tháng 11/2022, báo hiệu một sự thay đổi chính sách lớn để cứu lĩnh vực đang bị tổn thương nghiêm trọng. Cùng tháng, Bắc Kinh đã công bố gói thanh khoản mang tên “ba mũi tên” gồm: Tín dụng ngân hàng; Phát hành trái phiếu và Tài trợ vốn cổ phần.

Dù có các động thái quyết liệt, nhưng nhiều nhà phân tích tin rằng, bất chấp các biện pháp kích thích, không phải mọi nhà phát triển đều sống sót qua khủng hoảng. Một nhà phân tích bất động sản tại Trivium China nhận định, việc mở rộng hỗ trợ thông qua mũi tên thứ hai đã cho thấy rõ ràng, Bắc Kinh sẽ củng cố “vận may” của một số nhà phát triển mà họ coi là người chiến thắng và làm dịu quá trình giảm đòn bẩy của những người bị coi là thua cuộc. Điều đó có nghĩa là hỗ trợ phát hành trái phiếu sẽ được giới hạn cho những nhà phát triển khỏe mạnh, với hy vọng họ sẽ tiếp quản các dự án quá hạn từ những dự án đang gặp khó khăn.

Đầu tháng 1/2023, ngân hàng trung ương Trung Quốc cho biết, nếu giá nhà mới xây giảm 3 tháng liên tiếp trong một năm, chính quyền địa phương có thể chọn duy trì, hoặc hạ thấp, thậm chí loại bỏ lãi suất tối thiểu đối với các khoản vay mua nhà lần đầu.

Thị trường bất động sản của Trung Quốc – một trong những lĩnh vực hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã bị xáo trộn bởi giá nhà sụt giảm, doanh số bán hàng yếu và cuộc khủng hoảng nợ làm tê liệt các nhà phát triển lớn.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Bật chế độ phòng thủ trong môi trường lãi suất cao https://kinhdoanhkhoinghiep.com/bat-che-do-phong-thu-trong-moi-truong-lai-suat-cao/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:22 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8351 Trước tình hình lãi suất cao, thanh khoản căng thẳng, rủi ro luôn rình rập, việc nhà đầu tư bật chế độ phòng thủ được xem là tốt nhất.]]>

Trước tình hình lãi suất cao, thanh khoản căng thẳng, rủi ro luôn rình rập, việc nhà đầu tư bật chế độ phòng thủ được xem là tốt nhất.

>> Vượt rủi ro thanh khoản năm 2023

Nhận diện rủi ro

Có thể nói, sự thắt chặt thanh khoản ở hệ thống ngân hàng trong thời gian qua bắt nguồn từ một số nguyên nhân như các trục trặc trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), cuộc đua tăng lãi suất và sự đóng băng của thị trường bất động sản (BĐS).

Nhiều ngân hàng đã phải tăng lãi suất huy động để bù đắp sự thiếu hụt về thanh khoản, dẫn đến lãi suất huy động tăng sốc trong các tháng 10, 11 và 12 của năm 2022

Nhiều ngân hàng đã phải tăng lãi suất huy động để bù đắp sự thiếu hụt về thanh khoản, dẫn đến lãi suất huy động tăng sốc trong các tháng 10, 11 và 12 của năm 2022

Trong bối cảnh đó, hệ thống ngân hàng sẽ phải tăng lãi suất huy động để bù đắp sự thiếu hụt về thanh khoản, dẫn đến lãi suất huy động tăng sốc trong các tháng 10, 11 và 12 của năm 2022. Khác với thế giới, lãi suất của thế giới đang tăng cao nhưng nguyên nhân thì không như của Việt Nam. Mỹ, EU hay các nước phương Tây tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát, đánh vào nhu cầu, nhằm giảm tổng cầu qua đó tạo ra sự cân bằng cung cầu mới để đưa giá cả đi xuống.

Còn ở Việt Nam, lạm phát được kiểm soát tốt chỉ ở mức 4%, thì lãi suất 6-7% là hấp dẫn, bởi đó là lãi suất thực dương. Tuy nhiên, lãi suất ở Việt Nam tăng cao là bởi dòng vốn bị chuyển dịch từ tiền mặt sang bất động sản (BĐS) khá lớn, điều này làm cho một lượng vốn trở nên mất thanh khoản. Kèm thêm bất ổn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp gây rủi ro cho các khoản vay BĐS trước đó tăng cao, buộc các ngân hàng phải tăng huy động để hút dòng tiền, nhằm cân bằng tình trạng thanh khoản.

Hiện tại tình trạng đã tạm ổn sau khi một lượng tiền gửi đã bị hút vào ngân hàng sau khi lãi suất tăng mạnh và sốc. Một số ngân hàng tư nhân lớn như TCB, SHB hay VPB đã tăng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng lên mức 9,0-9.5%, cao hơn cả các ngân hàng tầm nhỏ hơn như LPB, ACB hay TPB…

Sau khi hút được một lượng vốn lớn, các ngân hàng này tạm ổn nhưng rủi ro sẽ tiếp tục diễn ra khi kỳ hạn đáo hạn của các khoản vay BĐS hoặc TPDN không thể trả, hoặc đơn giản là một công ty BĐS nào đó tuyên bố mất khả năng thanh toán, không thể trả nợ, hoặc xin khất nợ. Và nếu đó là một công ty tầm cỡ, quy mô lớn thì khi đó rủi ro lại tiếp tục diễn ra, lãi suất lại có thể một lần nữa tăng cao. Nhưng rủi ro đó cũng có thể sẽ không diễn ra, khi các tập đoàn BĐS lớn đang kịch liệt tái cơ cấu, bán tài sản để trả nợ.

Năm 2022, có một lượng lớn TPDN đã được trả trước hạn làm giảm đi đáng kể áp lực này. Nhưng vẫn còn khoảng 10 tỷ USD trái phiếu cần phải thanh toán trong năm 2023. Nếu việc giãn nợ với các chủ nợ không thành công thì ngay lập tức, rủi ro cũng sẽ xảy ra. Đó là chưa nói tới rủi ro một vài chủ doanh nghiệp cỡ lớn có thể vướng vòng lao lý bởi những sai phạm, hay cuộc chiến Nga – Ukraine có bước ngoặt mới.

Như vậy, hệ thống ngân hàng đang đứng trước những rủi ro khá lớn, có thể xảy ra, hoặc cũng có thể tránh được, cơ hội và rủi ro lúc này đang có tỷ lệ tương đương nhau.

>> Vì sao hệ thống các TCTD đối mặt với rủi ro thanh khoản?

Bật chế độ phòng thủ

Nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì ở mức 9% như hiện nay, tức là lãi suất cho vay tối thiểu ở mức 12-14%/năm. Đây là một mức lãi suất khá cao, làm tổn thương tăng trưởng kinh tế. Ở mức lãi suất này, người dân sẽ hạn chế tiêu dùng, còn doanh nghiệp hạn chế đầu tư khiến tăng trưởng kinh tế cũng sẽ bị ghìm lại.

Khác với thế giới, lãi suất của thế giới đang tăng cao nhưng nguyên nhân thì không như của Việt Nam

Khác với thế giới, lãi suất của thế giới đang tăng cao nhưng nguyên nhân thì không như của Việt Nam

Như vậy, nếu lãi suất này tiếp tục ở mức cao, thì rủi ro cho nền kinh tế là lớn. Còn nếu lãi suất này đi ngang trong nửa đầu 2023 và suy giảm dần trong nửa cuối khi các tín hiệu trên thị trường quốc tế lẫn quốc nội được xoa dịu, mới có thể hy vọng tăng trưởng kinh tế bứt tốc. Do đó, rủi ro xảy ra là thu nhập ròng của các công ty sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.

Trong tình hình lãi suất cao, thanh khoản căng thẳng, rủi ro luôn rình rập, thì việc nhà đầu tư bật chế độ phòng thủ được xem là tốt nhất. Các biện pháp phòng thủ hợp lý có thể kể đến như:

Thứ nhất, gửi ngân hàng, với mức lãi suất 9%, thậm chí 10-11-12%, thì gửi tiết kiệm được xem là chiến lược phòng thủ tốt. Người gửi tiền không phải lo lắng về thanh khoản, về lãi suất, lại đảm bảo một khoản thu nhập hấp dẫn. Do đó, những nhà đầu tư yếu tâm lý, hoặc cần một biện pháp phòng thủ tốt, thì hãy luôn chú trọng vào kênh đầu tư này.

Thứ hai, đối với nhà đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư thích mạo hiểm và yêu thích cổ phiếu thì đa dạng hóa danh mục bằng cách rải đều ở nhiều ngành khác nhau sẽ giúp tối thiểu hóa rủi ro. Trong đó, ngành bảo hiểm được xem là ngành không bao giờ được bỏ sót.

Thực tế đã cho thấy, đây là ngành nghề duy nhất chống chọi được với thanh khoản căng cứng và lãi suất dâng cao bởi họ không có nợ vay. Thậm chí các doanh nghiệp bảo hiểm còn hưởng lợi rất lớn khi lãi suất dâng cao. Lãi suất tăng sẽ giúp cho hoạt động đầu tư tiền gửi, chiếm hơn 80% lợi nhuận của công ty bảo hiểm ăn nên làm ra. Do đó, ngành bảo hiểm sẽ sống khỏe.

Thứ ba, ai cũng thấy ngành ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhưng không phải khó với tất cả các ngân hàng. Áp lực sẽ lớn đối với những ngân hàng căng thanh khoản, đầu tư rất nhiều vào TPDN và cho vay rất lớn trong lĩnh vực BĐS. Ngược lại, những ngân hàng không bị ảnh hưởng bởi 2 vấn đề trên thì còn sống khỏe. Họ không gặp áp lực về thanh khoản dẫn đến NIM của ngân hàng vẫn ổn định và thậm chí cho vay liên ngân hàng còn khá hấp dẫn. Do đó, những ngân hàng này sẽ tiếp tục bay cao trong 2023. Có thể kể đến là VCB, ACB, STB hay LPB…

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Điều tiết thị trường trái phiếu https://kinhdoanhkhoinghiep.com/dieu-tiet-thi-truong-trai-phieu/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:13 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8497 Thanh khoản của nhiều doanh nghiệp vẫn đang phụ thuộc những chuyển động tích cực của thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).]]>

Thanh khoản của nhiều doanh nghiệp vẫn đang phụ thuộc những chuyển động tích cực của thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).

>> Thị trường bất động sản và trái phiếu tiếp tục chi phối triển vọng ngân hàng năm 2023

Việc điều tiết thị trường TPDN trở lại sôi động, hoạt động minh bạch lành mạnh và hướng đến phát triển bền vững là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay.

p/Diễn đàn Dự báo kinh tế- Vượt “cơn gió ngược” 2023 do Tạp chí DĐDN tổ chức cuối năm 2022

Diễn đàn Dự báo kinh tế- Vượt “cơn gió ngược” 2023 do Tạp chí DĐDN tổ chức cuối năm 2022

Can thiệp khi cần thiết

Khó khăn của thị trường TPDN đã được thể hiện trong suốt năm 2022. Tình cảnh của thị trường TPDN đã được Thủ tướng Chính phủ đánh giá là “bệnh”, cần chữa, nhưng cần có thời gian do phải xử lý nhiều vấn đề cùng lúc.

Tuy nhiên, người đứng đầu Chính phủ đã có thông điệp rất rõ ràng với thị trường vào cuối năm 2022 rằng: “Chúng ta tôn trọng quy luật thị trường nhưng khi cần thiết, Nhà nước phải can thiệp, xây dựng cơ chế, chính sách để giải quyết; các cơ quan chức năng phải phản ứng chính sách kịp thời hơn, hiệu quả hơn; doanh nghiệp cũng phải điều chỉnh lại…”

Một trong những nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ đã giao cho ngành Ngân hàng ngay đầu năm nay là “Rà soát, điều chỉnh chính sách phù hợp, tháo gỡ khó khăn về tín dụng, nợ xấu, TPDN…”

>> Cảnh báo nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng

Rõ ràng, sự “ra tay” của ngành ngân hàng vào lúc này là vô cùng cần thiết để tháo nút thắt thanh khoản cho thị trường TPDN. Điều này cùng việc sửa đổi Nghị định 65/2022 sẽ có hiệu lực “song kiếm hợp bích”.

Chờ “làn gió” chuẩn tín dụng

Tại Diễn đàn Dự báo kinh tế-Vượt “cơn gió ngược” do DĐDN tổ chức vào cuối 2022, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup nhấn mạnh thị trường TPDN vẫn có triển vọng khi các doanh nghiệp đáp ứng chuẩn tín dụng do phía mua chủ yếu vẫn là ngân hàng. Điều này đồng nghĩa phải có quy định sớm, cụ thể, rõ ràng hơn nữa về thực thi chuẩn tín dụng.

Góp ý về việc sửa đổi Nghị định 65/2022, VCCI đã đề nghị có quy định về việc các NHTM khi môi giới bán trái phiếu thì cần tư vấn đầy đủ về rủi ro cho các nhà đầu tư cá nhân.

Bên cạnh đó, VCCI cho rằng vấn đề xếp hạng tín nhiệm còn bất cập. Thay vì áp dụng ngay quy định xếp hạng tín nhiệm bắt buộc từ 1/1/2023 hoặc lùi thời hạn đến 2024, VCCI đề nghị cân nhắc phương án khoanh định riêng một số doanh nghiệp phát hành buộc phải có xếp hạng tín nhiệm trong năm 2023, sau đó đến năm 2024 mới áp dụng đại trà. Đối với các doanh nghiệp buộc phải áp dụng trước thì nên lựa chọn một số ngành, lĩnh vực có thông tin tài chính tương đối lành mạnh.

“Giải pháp lựa chọn quy định xếp hạng tín nhiệm “mồi”, đặt trong bối cảnh hiện nay, vô cùng cần thiết, để tạo hiệu ứng lan tỏa niềm tin, điều mà thị trường trái phiếu rất cần ở năm 2023. Điều đó góp phần tháo gỡ dần những nút thắt thanh khoản, giảm áp lực điều tiết bằng tài chính”, ông Nguyễn Lê Ngọc Hoàn, chuyên gia Tài chính, nhận định.

Tuy nhiên, cập nhật theo Hội nghị ngành ngân hàng về tín dụng đối với bất động sản trong tuần vừa qua, chưa có thông tin cụ thể cho thấy ngân hàng sẽ có động thái “ra tay” tháo gỡ nút thắt trên thị trường TPDN. Các doanh nghiệp theo đó, đang rất ngóng chờ Nghị định sửa Nghị định 65 sẽ trình Chính phủ sớm.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: “Đóng băng” chờ tín hiệu mới https://kinhdoanhkhoinghiep.com/thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep-dong-bang-cho-tin-hieu-moi/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:11 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8525 Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) tiếp tục có những tín hiệu không lạc quan khi phát hành mới đóng băng và số lượng các doanh nghiệp chậm thanh toán lãi hay mua lại tăng dần.]]>

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) tiếp tục có những tín hiệu không lạc quan khi phát hành mới đóng băng và số lượng các doanh nghiệp chậm thanh toán lãi hay mua lại tăng dần.

>> Điều tiết thị trường trái phiếu

Tắc phát hành mới, chậm thanh toán cũ

Trạng thái đông cứng của thị trường TPDN thể hiện rất rõ trong tháng 1/2023. 

Cụ thể, theo Báo cáo tháng 1/2023 của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), tổng hợp từ HNX và SSC, tính đến ngày công bố thông tin 31/01/2023, hiện chưa có đợt phát hành nào trong năm 2023.

Trái phiếu doanh nghiệp

Trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong 2022 (Nguồn: VBMA)

Các đợt phát hành được công bố trong tháng 1/2023 hầu hết đều được phát hành vào tháng 12/2022. Trong các đợt phát hành này, nhóm Ngân hàng chiếm đa số với 3.269,5 tỷ phát hành trái phiếu riêng lẻ và 10.637,8 tỷ đồng phát hành ra công chúng. 3 đợt phát hành còn lại đến từ nhóm các công ty Chứng khoán và Bất động sản, chỉ chiếm khoảng 3%.

Báo cáo của VBMA cũng ghi nhận trong tháng 1, các doanh nghiệp đã thực hiện mua lại 8.068 tỷ đồng, tăng 56% so với cùng kỳ năm 2022. Đáng chú ý, theo VBMA, trong năm 2023, sẽ có khoảng 285.178 tỷ đồng trái phiếu đáo hạn. 

Trước đó, dữ liệu của nhiều định chế tài chính ghi nhận trong tháng 1/2023, các doanh nghiệp có khoảng hơn 17.000 tỷ đồng trái phiếu đến hạn đáo hạn.

Tuy nhiên, bước sang tháng 2 trong vòng chưa đầy 2 tuần, dữ liệu công bố từ HNX cho thấy, đã xuất hiện nhiều hơn những doanh nghiệp chưa mua lại trước hạn trái phiếu như kế hoạch. 

Điển hình là công bố thông tin ngày 1/2 của CTCP Lâu Đài Trắng, công ty chưa đại chúng, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ lưu trú, xây dựng và phát triển dự án bất động sản, thông báo kế hoạch thanh toán mua lại trái phiếu trước hạn nhưng chưa thực hiện. Cụ thể, với mã trái phiếu LDTCH2123001, đã phát hành 22/11/2022, ngày đáo hạn 22/5/2023, khối lượng phát hành 240 tỷ đồng và đang lưu hành khối lượng tương đương, công ty có kế hoạch thanh toán mua lại trước hạn ngày 5/1/2023 nhưng theo văn bản gia hạn đợt thanh toán mua lại trái phiếu trước hạn, công ty chậm thanh toán. Lý do được nêu là: Chịu nhiều tác động không tích cực từ thị trường, chưa thu xếp được nguồn vốn để thanh toán theo kế hoạch.

CTCP Lâu Đài Trắng cũng dự kiến thời gian thanh toán tiếp theo chậm nhất là 28/2/2023.

Tương tự, ngày 8/2023, CTCP Lavida Invest có địa chỉ trụ sở tại tầng 18 tòa nhà Vincom Đồng Khởi, TP HCM cũng có công bố thông tin bất thường về chậm thanh toán lãi, gốc trái phiếu. 

>> Trình Chính phủ sửa NĐ 65 để “cứu” thị trường trái phiếu

Theo văn bản, lô trái phiếu mã LVDCH2123001 công ty phát hành ngày 8/2/2021 và có thời gian đáo hạn là 8/2/2023, khối lượng phát hành theo mệnh giá 70 tỷ đồng, khối lượng đang lưu hành là 62 tỷ đồng, số tiền phải thanh toán là hơn 1,7 tỷ đồng vào ngày thanh toán lãi 8/2/2023 nhưng do chưa thu xếp được nguồn vốn nên chậm thanh toán. 

Theo kế hoạch dự kiến, từ 15/3-30/5, Lavida Invest sẽ có 3 đợt thanh toán theo giá trị trái phiếu lưu hành là 10 tỷ, 30 tỷ và 22 tỷ đồng.  

Ngoài các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực liên quan bất động sản chậm thanh toán lãi hay mua lại trái phiếu trước hạn kể trên, cái tên quen thuộc AGM – CTCP Xuất nhập khẩu An Giang cũng công bố về việc chậm thanh toán lãi kỳ 5 của gói trái phiếu mã AGMH2123003, kèm theo biên bản hội nghị chủ sở hữu trái phiếu thông qua việc phát mại tài sản đảm bảo của gói trái phiếu này để trả hết nợ gốc cộng lãi trái phiếu chậm nhất đến ngày 31/3/2023. 

Trước đó, CTCP Đầu tư và Xây dựng Vina 2 cũng công bố thông tin, đính kèm văn bản của Hội nghị người sở hữu trái phiếu về việc đồng ý thời gian dự kiến thanh toán 118,7 tỷ đồng trái phiếu theo mệnh giá vào 27/10/2023 cộng toàn bộ lãi phát sinh cho các trái chủ. Hay trong tháng 1/2023, Seaside Homes cũng công bố thông tin bất thường về việc chậm thanh toán lãi, gốc trái phiếu; Ngày thanh toán theo kế hoạch là 13/1/2023; Số tiền phải thanh toán hơn 51 tỷ đồng; Nguyên do chưa thu xếp kịp nguồn thanh toán…

Khó khăn của các doanh nghiệp trên thị trường trái phiếu như cảnh báo của chuyên gia đã thực sự lan ra khi khả năng thu xếp nguồn vốn thanh toán trong bối cảnh không phát hành mới được, không được ngân hàng mua trái phiếu để cơ cấu nợ như trước đây, không có nguồn tiền mới do dự án cũng tắc nghẽn, khách hàng không đóng tiền thanh toán… Nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng mới chỉ là sự xuất hiện “lẻ tẻ” về chậm thanh toán và chưa hoàn toàn phản ánh hết áp lực đáo hạn trái phiếu mà các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt trong 2023, nếu không có phương án nào để khơi thông nguồn vốn.

“Trông chờ cả” vào sửa Nghị định 65?

Theo đó, các chủ phát hành lẫn nhà đầu tư đang rất chờ đợi hiệu lực từ Nghị định sửa Nghị định 65/2022 vừa được trình Chính phủ. Theo chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc với báo chí mới đây, trong bối cảnh thị trường đang khó khăn, tinh thần sửa đổi của Nghị định mới là giãn thời gian áp dụng một số quy định để hỗ trợ cho cả bên cung và bên cầu trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ.

Sửa Nghị định 65 có tạo cú hích để niềm tin trở lại thị trường?

Sửa Nghị định 65, tạo cú hích để niềm tin trở lại thị trường. Ảnh minh họa

Dài hơi hơn, Bộ Tài chính đã chỉ đạo các đơn vị chức năng tổng rà soát các quy định liên quan và trao đổi với các bộ, ngành chức năng khác để sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về doanh nghiệp và tiền tệ ngân hàng… Đồng thời, các đơn vị chức năng tham mưu giải pháp trình các cấp có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh các quy định cho phù hợp hơn với thực tại thị trường.

Bộ trưởng cũng cho biết Bộ Tài chính cũng đã chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường giám sát, thanh, kiểm tra các tổ chức phát hành, các tổ chức cung cấp dịch vụ như công ty chứng khoán, công ty kiểm toán… liên quan tới thị trường này.

Mặt khác, Bộ Tài chính cũng tăng cường sự phối hợp với các bộ, ngành liên quan để thống nhất về giải pháp hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ phát triển đồng bộ, lành mạnh, đúng định hướng.

Bộ Tài chính cũng đã yêu cầu các doanh nghiệp phát hành chấp hành nghiêm quy định pháp luật về trái phiếu, công bố thông tin minh bạch để nhà đầu tư nắm bắt kịp thời và đưa ra quyết định đầu tư hợp lý.

Có thể nói, sau 2 cuộc họp khẩn và hội nghị nóng của NHNN với Bộ Xây dựng, 20 doanh nghiệp tập đoàn bất động sản, Hiệp hội và các TCTD để bàn về tín dụng đối với bất động sản, hiện tâm điểm chú ý vẫn đang dồn về các quy định cụ thể trong dự thảo Nghị định sửa Nghị định 65 nêu trên, liệu có khác với các quy định ở các phiên bản và theo các góp ý của các thành viên, các bên liên quan trên thị trường; đặc biệt, liệu có đáp ứng là kỳ vọng cú hích kích hoạt niềm tin trở lại trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp?

Một chuyên gia cho rằng với loạt giải pháp được đưa ra như nới điều kiện phát hành trái phiếu lùi thời điểm áp dụng quy định nhà đầu tư chuyên nghiệp, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, kéo dài kỳ hạn phát hành trái phiếu, điểm có thể mong đợi tháo nút thắt thanh khoản cho thị trường nhất trọng tâm có thể là việc lùi thực hiện quy định về xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tới 2024. Việc giãn thời gian thực hiện quy định trên sẽ giúp thị trường có thêm thời gian điều chỉnh và có thể duy trì cầu đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân.

Tuy nhiên, ông cũng cho rằng điều quan trọng là các doanh nghiệp “thể hiện” mình như thế nào để có thể duy trì được cầu với các nhà đầu tư không chuyên, trong điều kiện mà trước đó, Bộ Tài chính cũng đã phải yêu cầu kiểm soát chặt các hoạt động môi giới trái phiếu. 

“Nếu NHNN thực hiện cương quyết đúng chỉ đạo của Bộ Tài chính là: “Đối với các tổ chức tín dụng thời gian qua có hoạt động mối giới, tư vấn phát hành, hỗ trợ, cam kết mua lại trái phiếu và định hướng người đến gửi tiền chuyển sang mua trái phiếu doanh nghiệp cần có biện pháp cương quyết chấn chỉnh và có trách nhiệm với nhà đầu tư, bảo đảm tuyệt đối an toàn, an ninh thị trường tài chính, tiền tệ; cũng như UBCKNN tiếp tục tổ chức làm việc với các doanh nghiệp phát hành trái phiếu lớn cũng như doanh nghiệp có khối lượng trái phiếu sắp đáp hạn lớn, cần có  kế hoạch, giải pháp cụ thể chủ động thanh toán cho nhà đầu tư” – Cơ bản là các bên đảm bảo trách nhiệm của mình, không chây ì hay từ chối trách nhiệm…, nhà đầu tư nhìn thấy được sự đảm bảo, thì niềm tin sẽ trở lại”.

Vị chuyên gia cho rằng dẫu vậy, đây vẫn là giải pháp tình thế, còn về lâu dài, để thị trường trái phiếu phát triển minh bạch, bền vững hơn thì cần phải sửa đổi tận gốc các quy định về phát triển thị trường nói chung trong đó có cả vấn đề vận hành, giám sát thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Trái phiếu doanh nghiệp và rủi ro của các ngân hàng https://kinhdoanhkhoinghiep.com/trai-phieu-doanh-nghiep-va-rui-ro-cua-cac-ngan-hang/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:07 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8579 Chất lượng tài sản của các ngân hàng trong 2023 dự báo có thể suy giảm, do nợ xấu gia tăng trong khi nhiều TCTD có tỷ lệ bao phủ nợ xấu đang thấp, cùng với đó là vấn đề trái phiếu doanh nghiệp.]]>

Chất lượng tài sản của các ngân hàng trong 2023 dự báo có thể suy giảm, do nợ xấu gia tăng trong khi nhiều TCTD có tỷ lệ bao phủ nợ xấu đang thấp, cùng với đó là vấn đề trái phiếu doanh nghiệp.

>> Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: “Đóng băng” chờ tín hiệu mới

Năm 2022, ngành ngân hàng vẫn giữ được chất lượng tài sản ổn định.

Báo cáo về ngành ngân hàng của CTCK Yuanta Việt Nam ghi nhận tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ (NPL) của ngành tăng lên 1,60% (+26 điểm cơ bản YoY) trong năm 2022. Trong đó, đáng chú ý, tỷ lệ nợ nhóm 2 (SML) tăng 63 điểm cơ bản YoY đạt 1,83% trong năm 2022. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) vẫn ở mức cao 123% (-23 điểm phần trăm YoY) trong năm 2022 – nhưng có sự chênh lệch lớn giữa các ngân hàng.

MB là ngân hàng có tỷ lệ đầu tư TPDN/ tổng tài sản còn cao, tuy nhiên MB được đánh giá và khuyến nghị là một

MB là ngân hàng có tỷ lệ đầu tư TPDN/ tổng tài sản còn cao, tuy nhiên MB được đánh giá và khuyến nghị là một 3 lựa chọn hàng đầu cho nhà đầu tư trong 2023, cùng với VCB và ACB là 2 ngân hàng sạch bóng TPDN

Theo đó, Yuanta Việt Nam cho cho rằng nên chú ý đến chất lượng tài sản của các ngân hàng trong năm 2023, vì nợ xấu có thể sẽ gia tăng trong năm 2023E liên quan đến ngành bất động sản. Các ngân hàng có tỷ lệ LLR thấp có thể cần tăng cường trích lập dự phòng để bị cho việc giảm chất lượng tài sản có thể xảy ra. Ngược lại, các ngân hàng có tỷ lệ LLR cao, đặc biệt là VCB (317%) và tỷ lệ NPL thấp (chỉ 0,68%) sẽ linh hoạt trong việc giảm trích lập dự phòng để tăng lợi nhuận trong năm 2023E.

Một điểm được nhiều nhà đầu tư chú ý khi dự phóng về ngành ngân hàng trong năm nay, là vấn đề trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), phần lớn có liên quan đến ngành bất động sản mà Yuanta Việt Nam nhấn mạnh ở trên, căn cứ vào tỷ trọng phát hành TPDN trong những năm bùng nổ của thị trường vốn nợ 2018-2020, được sự chi phối về khối lượng và giá trị phát hành tập trung vào nhóm bất động sản. 

Dữ liệu tại các CTCK cho thấy tỷ lệ TPDN so với tổng tài sản của các ngân hàng đang tập trung vào một số tên tuổi  NVB, TPB, MBB, TCB, VPB, VBB… Trong khi đó, có những ngân hàng đã giảm tỷ lệ này khá đáng kể, chẳng hạn như ACB, EIB, LPB, PGB, SGB, STB, ABB, VAB, CTG, SSB, VIB, BID, VCB, KLB, HDB…

Theo Yuanta Việt Nam, nhìn chung thị trường TPDN đang chững lại và có thể vẫn sẽ ảm đạm ít nhất là đến hết 1H23 liên quan các vụ bê bối gần đây trên thị trường và các quy định về việc phát hành TPDN (theo Nghị định 65/2022/NĐ-CP). Điều này làm dấy lên lo ngại về độ an toàn của việc đầu tư vào TPDN và mức độ ảnh hưởng của loại tài sản này đối với các ngân hàng.

(Nguồn thống kê: Yuanta Việt Nam)

(Nguồn thống kê: Yuanta Việt Nam)

“Mặc dù tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp/tổng tài sản của các ngân hàng giảm trong quý 4/2022, một số ngân hàng vẫn có tỷ lệ đầu tư vào TPDN ở mức tương đối cao, chẳng hạn như NVB (6,6%, -50 điểm cơ bản QoQ), TPB (6,6%, -50 điểm cơ bản QoQ), TPB (6,6%, -50 điểm cơ bản QoQ), MBB (6,4%, -1,1 điểm cơ bản QoQ), VPB (6,4%, đi ngang QoQ) và TCB (5,9%, -60 điểm cơ bản QoQ). 

Các ngân hàng đầu tư nhiều vào trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là trái phiếu bất động sản (ví dụ MBB: chiếm 7,5% tổng tài sản, NVB: 7,1%, TPB: 7,1%, TCB: 6,5% và VPB: 6,4%) sẽ gặp rủi ro cao hơn so với các ngân hàng có tỷ lệ trái phiếu thấp (ví dụ: ACB: 0%)”, Yuanta Việt Nam nêu.

Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào đầu tư nhiều TPDN, cũng sẽ trở nên kém đi về chất lượng tài sản và gặp rủi ro. Chẳng hạn với MBB, tỷ lệ TPDN của MBB là tỷ lệ cao nhất trong ngành. Tuy nhiên, Yuanta Việt Nam vẫn đặt MBB là một trong những lựa chọn hàng đầu nhờ vào nền tảng tài chính vững chắc (như có lợi thế về chi phí vốn), niềm tin vào ban lãnh đạo, và theo nhóm phân tích là định giá cực kỳ hấp dẫn. Tỷ lệ trái phiếu cao có thể là một lo ngại đối với lợi nhuận của năm 2023E, nhưng theo quan điểm của Yuanta Việt Nam, vấn đề này không ảnh hưởng nhiều đến khả năng thanh khoản của MBB.

>> Luẩn quẩn thế chấp trái phiếu doanh nghiệp vay vốn

Ngoài ra, MBB cũng nằm trong nhóm TCTD hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém (gồm có VCB, HDB, VPB và MBB) nên được hưởng cơ chế hỗ trợ, trong đó được ưu tiên hạn mức tín dụng, cũng sẽ là bệ phóng để MBB tự giải phóng khỏi rủi ro đầu tư TPDN. 

Ngược lại, một số các chuyên gia lưu ý ngoài vấn đề tỷ lệ nắm giữ TPDN cao, “dắt dây” nợ xấu cho các ngân hàng, kể cả ngân hàng đang có tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp và chất lượng tài sản bảo đảm, vẫn là các ngân hàng có hệ sinh thái với các công ty “sân sau” đang kinh doanh, đầu tư hay liên quan lĩnh vực bất động sản. Theo đó, nếu thị trường bất động sản nếu tiếp tục khó phá băng thanh khoản, ngân hàng có thể không gặp khó hay suy giảm chất lượng tài sản từ TPDN đầu tư trực tiếp, nhưng sẽ “kẹt” từ vốn vào “sân sau” qua tài trợ tín dụng, cho vay hoặc thậm chí, bằng giải pháp nào đó, còn có hỗ trợ vốn đáo hạn trái phiếu.

Một chuyên gia nhắc lại yêu cầu của Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng mới đây về việc các TCTD phải kiểm soát chặt tín dụng không chảy vào “sân sau”, đồng thời nhấn mạnh nguồn vốn “có thể đi như nước chảy, theo nhiều con đường luồng lạch để đến với đích cần đến”; qua đó ông cho rằng nguy cơ tiềm ẩn từ nợ xấu có liên quan đến ngành bất động sản vẫn rất cần được theo dõi chặt trong 2023. Cũng vì vậy nên các TCTD sẽ phải thận trọng tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR), nếu xuất phát nền LLR còn thấp tại cuối 2022, chấp nhận giảm lợi nhuận.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Sửa đổi Nghị định 65/2022: Còn băn khoăn về quy định xếp hạng tín nhiệm https://kinhdoanhkhoinghiep.com/sua-doi-nghi-dinh-65-2022-con-ban-khoan-ve-quy-dinh-xep-hang-tin-nhiem/ Tue, 14 Feb 2023 08:21:53 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8797 Dù đánh giá cao, thế nhưng, bên cạnh những kỳ vọng, không ít ý kiến vẫn tỏ ra băn khoăn với quy định lùi thời hạn bắt buộc xếp hạng tín nhiệm tại Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022…]]>

Dù đánh giá cao, thế nhưng, bên cạnh những kỳ vọng, không ít ý kiến vẫn tỏ ra băn khoăn với quy định lùi thời hạn bắt buộc xếp hạng tín nhiệm tại Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022…

>> “Khơi dòng” trái phiếu doanh nghiệp: Kỳ vọng từ Dự thảo Nghị định 65 sửa đổi

Theo đó, Chính phủ vừa yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan khẩn trương hoàn thiện, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 65/2022/NĐ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế (Nghị định 65/2022).

Chính phủ vừa yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan khẩn trương hoàn thiện, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 65/2022/NĐ-CP - Ảnh minh họa: ITN

Chính phủ vừa yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan khẩn trương hoàn thiện, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 65/2022 – Ảnh minh họa: ITN

Đặc biệt, trong bối cảnh hàng loạt khó khăn xuất hiện trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, như: khối lượng phát hành mới sụt giảm; khối lượng mua lại tăng và có hiện tượng nhà đầu tư bán lại trái phiếu; khối lượng trái phiếu đến hạn trong thời gian tới lớn, doanh nghiệp khó khăn về dòng tiền để cân đối nguồn lực thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn và huy động vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh,… Thì Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022 với nhiều quy định mới được đề xuất, đem đến kỳ vọng sẽ giúp doanh nghiệp phát hành trái phiếu bước qua giai đoạn khó khăn hiện nay.

Cụ thể, tại nội dung Dự thảo, cơ quan soạn thảo đề xuất giãn thời gian thực hiện thêm 01 năm đối với quy định về xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Theo đó, nếu được thông qua, quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bảo đảm danh mục nắm giữ có giá trị trung bình 2 tỷ đồng tối thiểu trong 180 ngày, không bao gồm tiền đi vay sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2024, thay vì từ đầu năm 2023 như Nghị định 65/2022.

Theo Bộ Tài chính, quy định này sẽ giúp thị trường có thêm thời gian để điều chỉnh và doanh nghiệp có thể duy trì nhu cầu đầu tư trái phiếu từ nhà đầu tư cá nhân có tiềm lực tài chính, đặc biệt trong bối cảnh thanh khoản khó khăn.

>> “Gỡ khó” trái phiếu doanh nghiệp – Cần có chương trình “hoãn nợ” quốc gia

Bên cạnh những tích cực từ các quy định được đề xuất, vẫn còn không ít ý kiến băn khoăn

Dù đánh giá cao Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022, thế nhưng, vẫn còn không ít băn khoăn xoay quanh quy định về lùi thời gian xếp hạng tín nhiệm – Ảnh minh họa: ITN

Đáng chú ý, là quy định lùi thời hạn bắt buộc xếp hạng tín nhiệm khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu khối lượng lớn. Cụ thể, theo Nghị định 65/2022, từ đầu năm 2023, hồ sơ chào bán của doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm, trong khi, Dự thảo Nghị định (sửa đổi) đề xuất, lùi tới đầu năm 2024.

Quy định này cũng được cho là cấp thiết, bởi, hiện nay có khá nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong huy động vốn, trong khi thực hiện xếp hạng phải mất một khoảng thời gian nhất định và tăng thêm chi phí phát hành…

Ngoài những nội dung đã nêu, Dự thảo Nghị định (sửa đổi) cũng đề xuất, cho phép doanh nghiệp được kéo dài kỳ hạn trái phiếu đã phát hành thêm tối đa 2 năm. Với đề xuất này, doanh nghiệp đã phát hành trái phiếu trước đây còn dư nợ sẽ được gia hạn thời hạn trả nợ sang 2025 – 2026, cũng như có khả năng huy động vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh và cơ cấu lại nợ.

Trước những nội dung đề xuất đã được đưa ra, không ít chuyên gia cho rằng, việc cho phép doanh nghiệp được gia hạn thời hạn trả nợ tối đa 2 năm trên cơ sở đồng thuận của nhà đầu tư là đề xuất phù hợp nhằm giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. Tuy nhiên, việc thỏa thuận với nhà đầu tư là không dễ dàng, cần có thêm những quy định cụ thể.

Bên cạnh đó, đối với đề xuất giãn thời gian thực hiện 01 năm đối với quy định về xác định tư cách nhà đầu tư chuyên nghiệp, các chuyên gia cũng nhìn nhận, đây là biện pháp cần thiết để “cứu” thị trường, nhất là trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn.

Thế nhưng, về đề xuất lùi thời hạn bắt buộc xếp hạng tín nhiệm khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu khối lượng lớn, vẫn còn đó không ít băn khoăn.

Trong đó, theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), xếp hạng tín nhiệm là cơ sở rất quan trọng để làm lành mạnh hóa thị trường, tăng cường lòng tin của nhà đầu tư, đưa thị trường trái phiếu Việt Nam tiệm cận với chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, đề nghị Bộ Tài chính cân nhắc phương án quy định một số doanh nghiệp phát hành bắt buộc phải có xếp hạng trong năm 2023 và đến năm 2024 sẽ áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp có phát hành.

Theo VCCI, biện pháp này được kỳ vọng sẽ tạo một lượng khách hàng mồi cho thị trường dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, bước đầu tạo thói quen và sự tin tưởng của nhà đầu tư vào các báo cáo xếp hạng tín nhiệm, trước khi áp dụng bắt buộc đại trà cho tất cả các doanh nghiệp phát hành.

Còn theo Luật sư Trương Thanh Đức – Giám đốc Công ty Luật ANVI, trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), việc lùi quy định buộc xếp hạng tín nhiệm đến đầu năm 2024 mới áp dụng sẽ ảnh hưởng niềm tin của thị trường, làm tăng rủi ro cho nhà đầu tư.

“Thay vì lùi thời gian áp dụng, cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp thực hiện xếp hạng tín nhiệm trước khi phát hành trái phiếu. Việc xếp hạng tín nhiệm cần triển khai càng sớm càng tốt để hướng đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch, lành mạnh và phát triển bền vững”, Luật sư Trương Thanh Đức đề xuất.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>