thuế carbon – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com Trang thông tin kinh doanh & khởi nghiệp Mon, 09 Dec 2024 21:36:27 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhdoanhkhoinghiep/2025/08/kinhdoanhkhoinghiep.svg thuế carbon – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com 32 32 Áp lực thuế carbon với doanh nghiệp xuất khẩu vào EU https://kinhdoanhkhoinghiep.com/ap-luc-thue-carbon-voi-doanh-nghiep-xuat-khau-vao-eu/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:27 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8282 Liên minh châu Âu (EU) áp dụng tính thuế carbon đối với hàng hóa nhập khẩu từ năm 2023, Việt Nam cần chủ động nghiên cứu áp dụng có lộ trình loại thuế này cho hoạt động sản xuất trong nước…]]>

Liên minh châu Âu (EU) áp dụng tính thuế carbon đối với hàng hóa nhập khẩu từ năm 2023, Việt Nam cần chủ động nghiên cứu áp dụng có lộ trình loại thuế này cho hoạt động sản xuất trong nước…

>>Cam kết giảm carbon và lo ngại “hiệu ứng cánh bướm” ngành vận tải biển

Đây là chia sẻ của Luật sư Tạ Anh Tuấn – Trưởng Văn phòng luật sư Bách Gia Luật và Liên danh với Diễn đàn Doanh nghiệp.

– Nhiều ý kiến cho rằng, việc EU áp dụng tính thuế carbon đối với hàng hóa nhập khẩu với phạm vi rộng từ năm 2023 được dự báo sẽ gây những khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào EU, ông đánh giá sao về nhận định này?

Hiện nay, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc. Theo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU năm 2020 thì chỉ có một số mặt hàng xuất khẩu chịu thuế biên giới carbon tại EU như: Dệt may (3,07 tỷ USD), thép (494,406 triệu USD), sản phẩm từ chất dẻo (458,1 triệu USD), than đá (122 nghìn USD), các sản phẩm hóa chất (15,99 triệu USD), đá quý, kim loại quý và sản phẩm (60,2 triệu USD), giấy và các sản phẩm từ giấy (4,76 triệu USD).

Trong đó, thép là hàng hóa có khả năng chịu thuế carbon cao nhất vì ở Việt Nam sử dụng nhiên liệu đầu vào như than để sản xuất thép. Bởi, theo ước tính của Bộ Công Thương, để sản xuất 10 triệu tấn thép hàng năm sẽ tạo ra 21 triệu tấn khí thải carbon và lượng xả thải carbon từ sản xuất thép sẽ chiếm khoảng 17% tổng lượng xả thải carbon quốc gia đến năm 2025. Các mặt hàng khác như dầu mỏ, khoáng sản, xi măng thì Việt Nam gần như không xuất khẩu hoặc xuất khẩu rất ít sang EU.

Việt Nam dù không nằm trong danh sách top 5 quốc gia xuất khẩu nhiều nhất các mặt hàng trong một số lĩnh vực bị xem xét của EU, nhưng EU đang là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do vậy, trong tương lai, các doanh nghiệp sản xuất trong các ngành có nguy cơ cao như thép, nhôm, lọc dầu, xi măng, giấy, thủy tinh, phân bón, năng lượng… của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường EU sẽ gặp nhiều khó khăn.

Xét trong ngắn hạn, việc EU áp dụng thuế biên giới carbon đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ khiến GDP của Việt Nam thấp hơn bởi xuất khẩu của Việt Nam sang EU chiếm khá cao khi ở mức khoảng 10% GDP hàng năm của quốc gia và đồng thời các nhà sản xuất tại các nước phát triển sẽ giảm đầu tư tại Việt Nam khi các hàng hóa xuất khẩu của họ vào EU bị áp thuế biên giới carbon.

>>Cần triển khai công cụ định giá carbon tại Việt Nam

p/Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ bị đánh thuế cao như: dệt may, thép, chất dẻo.

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ bị đánh thuế cao như: dệt may, thép, chất dẻo.

– Bên cạnh những ảnh hưởng đã nêu, việc EU áp dụng tính thuế carbon, liệu còn tiềm ẩn nguy cơ gì với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam không, thưa ông?

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), đã thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng mạnh. Đáng chú ý, các mặt hàng đang có lợi thế của Việt Nam và trực tiếp tạo công ăn việc làm cho người dân như nông sản, thủy sản, lâm sản, dệt may, da giầy… có sức tăng ngoạn mục.

Mặc dù tới đây, EU mới chỉ áp thuế carbon với các mặt hàng công nghiệp như xi măng, luyện kim, sắt thép, giấy, thủy tinh… nhưng khả năng các mặt hàng nông nghiệp phải chịu thuế cũng không loại trừ.

Trong trường hợp đề xuất đánh thuế carbon đối với hàng hóa nhập khẩu của EU có hiệu lực thi hành thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này bị ảnh hưởng khá lớn vì Việt Nam mặc dù đã áp dụng thuế bảo vệ môi trường đối với 8 mặt hàng, nhưng lại chưa áp dụng thuế xả thải carbon và quy chuẩn về xả khí thải của Việt Nam thấp hơn EU. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ bị đánh thuế cao như: dệt may, thép, chất dẻo.

– Trước những ảnh hưởng và nguy cơ tiềm ẩn, Việt Nam cần có giải pháp gì để giảm thiểu khó khăn cho các doanh nghiệp trong thời gian tới, thưa ông?

Để giảm thiểu những khó khăn cho doanh nghiệp, theo tôi, các cơ quan quản lý cũng cần nghiên cứu áp dụng thuế biên giới carbon tại Việt Nam, bởi việc áp thuế biên giới carbon không chỉ nâng cao tiêu chuẩn về giảm khí thải carbon trong quá trình sản xuất tại Việt Nam, mà còn là căn cứ để đàm phán thương mại về thuế suất carbon đối với hàng hóa nhập khẩu mà EU dự định áp dụng,…

Tuy nhiên, việc áp dụng thuế biên giới carbon cần có lộ trình và có thể chưa áp dụng ngay sau khi EU áp thuế biên giới carbon vào năm 2023 do áp dụng thuế biên giới carbon cũng mang lại một số bất lợi đối với kinh tế Việt Nam như: Giảm thiểu cạnh tranh thương mại của các hàng hóa Việt Nam do giá sản xuất các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng; Tăng khả năng cạnh tranh của các hàng hóa EU vào Việt Nam do giá hàng hóa nội địa gia tăng khi áp thuế biên giới carbon.

Trong thời gian này, chúng ta có thể áp dụng giải pháp khác thay thế việc áp dụng thuế biên giới carbon trong nước là khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu chuyển đổi công nghệ để giảm thải khí carbon trong quá trình sản xuất. Chính phủ có thể ưu đãi thuế, ưu đãi tín dụng hay các chính sách khác cho các doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ sản xuất sạch hơn.

Từ đó, hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam vào EU sẽ chịu mức thuế biên giới carbon thấp hơn hoặc không bị áp dụng thuế biên giới carbon khi các tiêu chuẩn về xả thải carbon trong quá trình sản xuất tuân theo tiêu chuẩn của EU.

– Xin cảm ơn ông!

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
“Rộng cửa” cho tín dụng xanh https://kinhdoanhkhoinghiep.com/rong-cua-cho-tin-dung-xanh/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:17 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8437 Tăng trưởng xanh - phát triển bền vững đang trở thành xu thế tất yếu và cấp bách của các quốc gia, “tín dụng xanh” được xem là công cụ chính sách tiền tệ và là kênh dẫn vốn hữu hiệu.]]>

Tăng trưởng xanh – phát triển bền vững đang trở thành xu thế tất yếu và cấp bách của các quốc gia, “tín dụng xanh” được xem là công cụ chính sách tiền tệ và là kênh dẫn vốn hữu hiệu.

>> Tài chính xanh và công nghệ blockchain đưa phát thải ròng về 0

LTS: Việt Nam đang tích cực triển khai lộ trình sửa đổi, bổ sung khuôn khổ pháp lý nhằm huy động nguồn tài chính xanh, công nghệ xanh và khuyến khích hoạt động sản xuất và đầu tư xanh, thực hiện chuyển đổi xanh.

Tăng trưởng xanh – phát triển bền vững đang trở thành xu thế tất yếu và cấp bách của các quốc

Đó là nhận định của bà Lương Phương Mai, Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp lớn Khu vực phía Nam và Bất Động Sản, HSBC Việt Nam khi trao đổi với DĐDN.

– Phát triển tín dụng xanh hiện đang còn tồn tại, hạn chế ở đâu, thưa bà?

Để phát triển tín dụng xanh, cần có sự kết hợp giữa nhận thức của Chính phủ, doanh nghiệp, thị trường và các chính sách, cơ chế hỗ trợ phù hợp.

Chúng tôi nhận thấy quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế xanh hiện nay chưa đồng đều giữa các ngành kinh tế. Cụ thể, trong những năm vừa qua, ngành năng lượng đã có một số bước tiến đáng kể trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, thị trường hiện đang mong Quy hoạch điện 8 được hoàn thiện sớm để định hướng phát triển sắp tới cho lĩnh vực này. Trong khi đó, các ngành khác chưa có chính sách giảm phát thải với mục tiêu cụ thể. Do vậy, các doanh nghiệp trong ngành chưa đưa được vào chiến lược phát triển của mình.

Hiện tại, một số doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn xanh của HSBC chủ yếu xuất phát từ tầm nhìn của người quản lý, hoặc do áp lực trong chuỗi giá trị khiến họ thấy cần thiết phải đi theo hướng phát triển bền vững, hoặc để tiếp cận nguồn vốn quốc tế dễ dàng hơn, chứ chưa phải do sức ép của chính sách pháp luật như ở một số quốc gia phát triển.

>> 8 khuyến nghị phát triển tài chính xanh tại Việt Nam

– Vậy Chính phủ cần có biện pháp thúc đẩy tín dụng xanh như thế nào để khơi thông dòng chảy vốn mạnh mẽ hơn, thưa bà?

Chính phủ và các Bộ ngành cần sớm ban hành lộ trình giảm phát thải với mục tiêu cụ thể cho các ngành phát thải cao, cũng như các quy định hỗ trợ phát triển bền vững trong các ngành này. Khi các khung pháp lý hỗ trợ phát triển bền vững trở nên rõ ràng hơn, doanh nghiệp sẽ đi trước đón đầu để được hưởng những lợi ích từ các cơ chế pháp lý này.

Hiện Chính phủ đang soạn Dự thảo quy định về tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh. Đây là một bước tiến đúng hướng tạo minh bạch cho thị trường, hỗ trợ các tổ chức tín dụng rút ngắn khoảng cách kỹ thuật trong tài trợ xanh đối với các dự án phát triển bền vững.

Cơ cấu tín dụng xanh theo lĩnh vực tại Việt Nam tính đễn 30/6/2022. Nguồn: NHNN

Cơ cấu tín dụng xanh theo lĩnh vực tại Việt Nam tính đến 30/6/2022. Nguồn: NHNN

Chúng tôi rất mong đợi quy định này sớm được ban hành, cùng với việc chỉ định các tổ chức uy tín cung cấp các chứng chỉ xanh dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật tương ứng với các mục tiêu giảm phát thải.

Ngoài ra, việc cân nhắc thuế carbon cho các ngành phát thải cao và sự ra đời thị trường tín chỉ carbon tự nguyện là cần thiết. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể thấy những rủi ro và cơ hội trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế phát thải các bon thấp.

– Về phía các doanh nghiệp, theo bà cần có sự chuẩn bị ra sao để đón được nguồn vốn từ tín dụng xanh hiệu quả?

Doanh nghiệp nên có sự chuẩn bị nghiêm túc cho chiến lược phát triển xanh chứ không chỉ để tiếp cận nguồn vốn xanh. Nguồn vốn xanh chỉ là một phương tiện để doanh nghiệp hiện thực hóa chiến lược phát triển xanh của mình.

Ví dụ, về nguồn lực, phát triển xanh cần sự tư duy và chia sẻ trách nhiệm từ cấp quản lý tới vận hành, xuyên suốt các khâu từ chiến lược, thu mua nguyên liệu, sản xuất, phân phối,… chứ không chỉ là việc của phòng tài chính kế toán.

Mặc dù, các quy định hiện hành chưa tạo sức ép cho doanh nghiệp phải chuyển dịch xanh, nhưng các doanh nghiệp nên chuẩn bị tâm lý. Một khi những thay đổi pháp lý đó xảy ra, có thể với tốc độ rất nhanh và quy mô lớn. Do đó, doanh nghiệp nên chủ động nghiên cứu các xu hướng giảm phát thải trong ngành để tìm những hướng đi tiên phong mới, thay vì bị động trước các thay đổi pháp lý.

Dưới góc nhìn của HSBC, các khách hàng của chúng tôi khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đã thấy rõ những sức ép, đồng thời cũng là cơ hội. Trong tương lai gần, tôi nghĩ chiến lược phát triển xanh sẽ là chiến lược khác biệt hóa hiệu quả. Và cũng chỉ trong một tương lai không xa nữa, phát triển xanh sẽ là chiến lược cơ bản bao trùm thị trường. Khi đó, những doanh nghiệp lựa chọn mô hình kinh tế đi ngược lại sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh, thậm chí bị đào thải.

Khi doanh nghiệp đã hướng tới phát triển xanh và có mục tiêu cụ thể, việc đo lường và chứng nhận kết quả một cách minh bạch sẽ rất có ích để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn xanh, đặc biệt là nguồn vốn quốc tế.

Trong quy trình thẩm định tín dụng, HSBC đã và đang đưa vào phân tích những yếu tố về rủi ro chuyển dịch sang nền kinh tế xanh như nhận thức của doanh nghiệp, các bước chuẩn bị để ứng phó trong tình hình mới,… Chúng tôi rất mong muốn được lắng nghe những chia sẻ về định hướng phát triển xanh của doanh nghiệp để có thể đưa ra những tư vấn phù hợp liên quan tới phạm trù tài chính và tăng cường minh bạch hóa việc thực hiện chiến lược này.

– Xin cảm ơn bà!

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>