lãi suất – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com Trang thông tin kinh doanh & khởi nghiệp Mon, 09 Dec 2024 21:38:45 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhdoanhkhoinghiep/2025/08/kinhdoanhkhoinghiep.svg lãi suất – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com 32 32 Cần giải pháp giảm lãi suất để doanh nghiệp được tiếp cận vốn https://kinhdoanhkhoinghiep.com/can-giai-phap-giam-lai-suat-de-doanh-nghiep-duoc-tiep-can-von/ Tue, 14 Feb 2023 08:23:12 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=7719 Theo các chuyên gia, khó khăn trên thị trường vốn là thách thức lớn với doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.]]>

Theo các chuyên gia, khó khăn trên thị trường vốn là thách thức lớn với doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

>>> Giải bài toán vốn cho doanh nghiệp

Theo ông Trần Việt Anh, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Nam Thái Sơn, hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu đơn hàng rất thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn còn hạn mức tín dụng nhưng không dám vay thêm. Theo đó, các doanh nghiệp này chỉ mong mỏi được ngân hàng giảm thêm lãi suất không cần tăng hạn mức tín dụng. 

Doanh nghiệp xuất khẩu

Doanh nghiệp xuất khẩu “đói” đơn hàng trong khi chi phí tăng cao và khó tiếp cận tín dụng.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM (HUBA) cũng cho rằng, khó khăn của các doanh nghiệp hiện nay là việc tiếp cận nguồn vốn và phải chịu lãi suất cao.

“Nếu lãi suất dài hạn trên 10% thì doanh nghiệp sẽ rất khó để hoạt động và phát triển. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các ngân hàng cần có giải pháp hỗ trợ, giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp”, ông Hòa chia sẻ.

Đồng thời nhấn mạnh, dù Ngân hàng cũng là doanh nghiệp, cũng cần có lợi nhuận để bảo đảm quyền lợi ngân hàng, cổ đông… nhưng nên có sự đồng hành chia sẻ với cộng đồng doanh nghiệp. Bởi hiện nay, doanh nghiệp đang sử dụng BĐS làm tài sản thế chấp để vay vốn. Trong bối cảnh giá BĐS giảm, tỉ lệ giải ngân trên giá trị BĐS giảm thì nguồn vốn giải ngân cho doanh nghiệp rất thấp. Một số doanh nghiệp đã ký hợp đồng vay nhưng cả 2 giá trị bị kéo xuống, tỉ lệ giải ngân cũng bị kéo xuống, buộc họ phải bổ sung tài sản thế chấp, tạo thêm áp lực cho doanh nghiệp.

Chủ tịch HUBA Nguyễn Ngọc Hòa cũng cho rằng, để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thì chúng ta phải “dọn dẹp nhà cho sạch sẽ”, các khu công nghiệp của chúng ta phải đạt chuẩn sinh thái, đạt chuẩn xanh – bền vững để xuất khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới. Vì vậy,  Nhà nước cần có những chính sách thúc đẩy cơ chế ưu đãi và đẩy dòng vốn vào các lĩnh vực phát triển bền vững.

>>>Doanh nghiệp thích ứng để phát triển

Đồng quan điểm, PGS.TS. Trần Đình Thiên nhận định, những ách tắc về vốn còn liên quan đến ràng buộc thể chế về luật lệ, pháp lý như về đất đai, cơ chế xin – cho… “Vậy thì, cái gọi là “khu vực nội địa” đang bị trói buộc rất nhiều so với khu vực FDI. Và trong điều kiện lạm phát tăng lên, lãi suất cao, nền kinh tế bất ổn sẽ tiếp tục tác động tới khu vực nội địa của nền kinh tế. Nếu lãi suất cao 15%-16%/năm như hiện nay, làm sao doanh nghiệp sống được?”, ông Thiên nói.

Theo các chuyên gia, khó khăn trên thị trường vốn là thách thức lớn với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Theo các chuyên gia, khó khăn trên thị trường vốn là thách thức lớn với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Do đó, chuyên gia Trần Đình Thiên cho rằng, cần có giải pháp hỗ trợ, khuyến khích đối với khu vực kinh tế nội địa để có điều kiện tương xứng với khu vực FDI, làm sao để lãi suất ổn định.

Hệ thống khuyến khích cho doanh nghiệp nội địa phát triển phải thay đổi, làm sao đạt hiệu quả của quản lý nhà nước. Cấu trúc lại, cải cách hệ thống tài chính để ổn định an toàn… Đồng thời, cần tập trung cao độ tái cấu trúc hệ thống thị trường, gắn với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, điều chỉnh Nghị định 65 về trái phiếu doanh nghiệp phù hợp để thị trường này phát triển tốt hơn.

Theo PGS.TS. Trần Đình Thiên, cách tiếp cận đối với nguồn lực công hiện nay cũng đang có sự thay đổi. “Chưa bao giờ thấy Chính phủ ráo riết đẩy mạnh đầu tư công như hiện nay. Cách làm của Chính phủ sẽ giúp có lượng vốn cho doanh nghiệp qua kênh đầu tư công. Đi cùng với đó, cần rà soát lại cơ chế giải ngân, giảm các thủ tục quá phức tạp; cần rà soát quy chế cách làm…”, ông Thiên kiến nghị.

Còn theo TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam cho rằng, các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp giãn, hoãn, giảm… cần được tiếp tục. Nguồn vốn ngân hàng phải tập trung vào những lĩnh vực tiềm năng để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Cũng theo TS. Vũ Tiến Lộc, khôi phục thị trường bất động sản là một trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện nay để lấy lại niềm tin của nhà đầu tư, thu hút dòng tiền trở lại thị trường bất động sản. Trước hết phải giải quyết các vấn đề về thể chế và pháp lý, thủ tục hành chính.

Cần hệ thống lại các chính sách để trên cơ sở đó dẫn dắt cho việc tái cấu trúc thị trường vốn cho bất động sản và khơi thông nguồn vốn vào thị trường này; đa dạng các nguồn vốn của các ngân hàng từ trái phiếu, cổ phiếu, các quỹ đầu tư… thay cho nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
So sánh 27 ngân hàng: Dư nợ tập trung nhóm đầu, rủi ro chưa phản ánh đủ https://kinhdoanhkhoinghiep.com/so-sanh-27-ngan-hang-du-no-tap-trung-nhom-dau-rui-ro-chua-phan-anh-du/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:41 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8089 Trong 27 ngân hàng niêm yết, 76,2% tổng dư nợ tín dụng thuộc về 9 ngân hàng đứng đầu. Các ngân hàng thể hiện hiệu quả kinh năm 2023 với xu hướng một vài chỉ tiêu tài chính có sự phân hóa lớn.]]>

Trong 27 ngân hàng niêm yết, 76,2% tổng dư nợ tín dụng thuộc về 9 ngân hàng đứng đầu. Các ngân hàng thể hiện hiệu quả kinh năm 2023 với xu hướng một vài chỉ tiêu tài chính có sự phân hóa lớn.

>> Tín dụng và Bất động sản: Gỡ khó, cộng sinh ra sao?

Quy mô huy động và tín dụng

Huy động vốn vẫn dồn về các ngân hàng lớn và tầm trung, chứng tỏ lợi thế của mình trong hút tiền gửi không hẳn bằng lãi suất. Cụ thể: Nhóm 3 ông lớn (BID, CTG, VCB) chiếm 46,5% tổng huy động; Nhóm tầm trung (MBB, STB, ACB, SHB, TCB, VPB) chiếm 29%; Nhóm còn lại chiếm 24,5%.

Quy mô huy động và tín dụng

Về quy mô tín dụng: Nhóm 3 ngân hàng lớn (BID, CTG, VCB- hay còn gọi nhóm SOEs) chiếm 45,3% tổng dư nợ tín dụng; Nhóm 6 ngân hàng quy mô tầm trung (MBB, VPB, TCB, STB, ACB, SHB) chiếm 30,9% quy mô dư nợ; Nhóm 18 ngân hàng còn lại chỉ chiếm 23, 7% quy mô dư nợ tín dụng.

Qua đây, chúng ta vẫn thấy sự vượt trội của 3 ông lớn nhà nước về cả quy mô huy động và cho vay. Do đó, chính sách lãi suất của các ông lớn này sẽ ảnh hưởng nhất định đối với lãi suất thị trường chung (chưa tính Agribank có quy mô tín dụng hơn 1,44 triệu tỷ VND).

Quy mô huy động và tín dụng

Về tốc độ tăng trưởng thì năm 2022 tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng đa phần cao hơn tốc độ tăng trưởng cho vay. Đây là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ LDR cao và các ngân hàng đã đẩy lãi suất huy động tăng cao trong thời gian vừa qua.

Về tốc độ tăng trưởng tín dụng: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao ở nhóm các ngân hàng tham gia tái cơ cấu là VCB (19,2%), MBB (25%), VPB (25%), HDB (27,9%). Chúng tôi kỳ vọng 4 ngân hàng này sẽ tiếp tục được NHNN giao hạn mức tăng trưởng tín dụng cao trong năm nay.

Quy mô huy động và tín dụng

Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của ngành ngân hàng trong năm 2022 khá cao và đa phần cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng, cho thấy NIM trung bình năm của các ngân hàng cải thiện và thu nhập ngoài lãi cải thiện sau dịch. Tuy nhiên đây sẽ là trở ngại cho tăng trưởng lợi nhuận năm 2023 khi nền năm 2022 cao.

>> Ngân hàng nhận hỗ trợ các TCTD yếu kém triển khai ra sao?

>> Nền lãi suất cao không ảnh hưởng biên lãi ròng của ngân hàng

Xét theo quý, chúng tôi nhận thấy lợi nhuận của đa số các ngân hàng đạt đỉnh trong quý 1-3/2022 và bắt đầu giảm từ quý 4/2022 khi áp lực thanh khoản và lãi suất tăng, chưa kể rủi ro từ thị trường BĐS và sự hạ nhiệt của nền kinh tế toàn cầu. Các yếu tố rủi ro này chưa phản ánh hết trong KQKD của các ngân hàng trong quý 4 và sẽ tiếp tục phản ánh vào các quý đầu 2023.

Quy mô huy động và tín dụng

Chất lượng tín dụng và dự phòng

Tính đến cuối năm 2022, tỷ lệ nợ xấu của nhóm ngân hàng đa phần vẫn duy trì mức lành mạnh, tuy nhiên chất lượng nợ có dấu hiệu suy giảm mạnh từ quý 4. Nợ nhóm 2 gia tăng mạnh ở hầu hết các bank là dấu hiệu banđầu cho thấy chất lượng nợ đang suy giảm.

Nợ xấu hợp nhất cao (>2%) ở các ngân hàng: SHB, PGB, SGB, OCB, ABB, BVB, VBB, VIB và đặc biệt cao ở VPB và NVB.

Chất lượng tín dụng và dự phòng

Với VPB, nợ xấu cao do FE Credit có tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh trong dịch, nếu tính riêng ngân hàng mẹ tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức 2,8% (vẫn là mức cao trong các ngân hàng cùng phân khúc). Tổng tỷ lệ nợ xấu + nhóm 2 riêng lẻ ngân hàng mẹ là 6,9% vẫn là mức cao trong hệ thống.

Với NVB (Ngân hàng Quốc Dân) đây là ngân hàng đáng lưu ý khi tỷ lệ nợ xấu gần 18%, tính cả nợ nhóm 2 chiếm hơn 23,4% tổng dự nợ tín dụng. 

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu là chỉ số quan trọng để đánh giá ngân hàng trong giai đoạn hiện nay khi rủi ro chất lượng tín dụng hệ thống suy giảm. Theo đó, chúng tôi đánh giá cao các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100% và tỷ lệ bao phủ nợ xấu + nợ nhóm 2 từ 85% trở lên.

Chất lượng tín dụng và dự phòng

Với tiêu chí trên, chúng tôi đánh giá cao VCB, MBB, BID, BAB, ACB. Với tỷ lệ bao phủ nợ cao, các ngân hàng này sẽ có nhiều dư địa “mạnh tay” xử lý nợ xấu cũ và chuẩn bị cho việc chất lượng tín dụng suy giảm trong tương lai, đặc biệt là VCB.

VCB có mức dự phòng vượt trội so với toàn bộ ngành và chứng tỏ khả năng vượt qua những giai đoạn “khó khăn” tốt nhất. Và với mức dự phòng kỷ lục, rõ ràng áp lực trích lập dự phòng năm 2023 của VCB sẽ thấp hơn nhiều so với tất cả các bank khác trong ngành, chưa kể chất lượng nợ của VCB tốt hơn. Do đó, lợi nhuận 2023 công bố của VCB phụ thuộc nhiều vào việc họ có tiếp tục “giấu” lợi nhuận qua trích lập hay không. Lưu ý là quý 4/2022, VCB giảm trích lập đã giúp book lợi nhuận quý vượt trội so với quá khứ và so với các ngân hàng trong ngành.

Trường hợp NVB đang gặp nhiều rủi ro trong năm 2023 khi dự xấu và nhóm 2 vượt xa tổng trích lập và vốn chủ sở hữu của ngân hàng này. Theo đánh giá của chúng tôi, hiện quy mô ngân hàng này quá bé để có thể ảnh hưởng hệ thống, tuy nhiên những tin tức bất lợi về ngân hàng này sẽ có thể ảnh hưởng tâm lý ngắn hạn (nếu có).

Về số dư trái phiếu Doanh nghiệp (TPDN) trong cơ cấu tín dụng, tỷ lệ TPDN/tổng tín dụng có sự phân cực lớn trong ngành ngân hàng. Các ngân hàng nhỏ và các ngân hàng truyền thống như ACB hầu như không tham gia thị trường này. Số dư TPDN tập trung ở 4 ngân hàng tầm trung là TPB, TCB, MBB, VPB. Chúng tôi đánh giá đây là những rủi ro tiềm ẩn khi trước nay đầu tư TPDN không được quản lý chặt chẽ/đánh giá đầy đủ như cho vay. Do đó, việc đầu tư 4 ngân hàng này cần đặc biệt quan tâm đến diễn biến thị trường TPDN và thanh khoản các doanh nghiệp bất động sản.

Chất lượng tín dụng và dự phòng

Tin tức liên quan đến thị trường TPDN có thể tác động đến triển vọng của 4 ngân hàng này và nhà đầu tư có thể tận dụng thời cơ nếu có. Lưu ý cẩn trọng đầu quý 3 khi số lượng TPDN sẽ dồn dập đến hạn từ tháng 5-9/2023 (nếu các quý tới 4 NH này không giảm số dư TPDN nắm giữ).

Hiệu suất sinh lời

ROE của các ngân hàng trong năm 2022 đạt mức cao, nhóm duy trì ROE cao vượt trội gồm VIB, ACB, MBB, VCB, HDB.

NIM trong quý 4 2022 có sự phân cực: NIM gần như chưa bị ảnh hưởng ở nhóm ngân hàng lớn VCB, BID, CTG và một số ngân hàng như MBB, HDB, VIB, OCB, STB đi ngược xu hướng khi NIM tăng mạnh từ quý 3/2022 khi không tiếp tục xử lý phần lãi và phí phải thu và NIM tiếp tục duy trì cao trong quý 4.

Hiệu suất sinh lời

Các ngân hàng khác chứng kiến xu hướng NIM giảm. Tổng thể lại NIM trong quý 4 chưa có dấu hiệu giảm, tuy nhiên  áp lực NIM 2023 là có và phụ thuộc vào việc đẩy chi phí huy động vốn gia tăng cho người vay. Hiện tại FIDT cho rằng cần thêm KQKD quý 1/2023 để nhận định được xu hướng.

FIDT đánh giá ngành ngân hàng còn chịu áp lực trong 2 quý đầu năm 2023 với việc áp lực trích lập dự phòng gia tăng, hai quý tiếp theo phụ thuộc nhiều các biện pháp hỗ trợ thị trường TPDN và bất động sản trong 2 quý đầu năm. Nếu các biện pháp không được thông qua thì khả năng chất lượng tài sản nhóm ngân hàng tiếp tục suy giảm trong 2 quý cuối năm.

Định giá

So sánh định giá P/B tương quan với ROE với ý nghĩa các ngân hàng nằm phía trên đường thẳng là đang được định giá P/B cao tương đối khi so sánh với ngành.

Định giá

VCB rõ rành đang có vị thế nhất định về định giá so sánh với chất lượng tài sản vượt trội và vị thế. Nhóm được định giá cao hiện tại thiên hướng về nhóm có tỷ lệ cổ phiếu lưu hành tự do (free-float) thấp hơn. Do đó, trading/đầu cơ ngắn hạn nhóm ngân hàng cần quan tâm tỷ lệ free-float.

Khi so sánh định giá P/B hiện tại so với trung bình từ 2016-nay, chúng tôi thấy đa phần cổ phiếu ngành ngân hàng đang nằm gần biên dưới (vùng định giá rẻ của chính nó) phản ánh những rủi ro ngành đang gặp phải và dòng tiền thị trường không đủ mạnh để ủng hộ ngành ngân hàng.

Nhận định chung, năm 2023 chưa phải là một năm tốt cho ngành ngân hàng, nhất là trong 2 quý đầu 2023 (áp lực trích lập dự phòng gia tăng khi chất lượng tài sản suy giảm). NIM cần thêm ít nhất 1 quý để đánh giá khi việc điều chỉnh lãi suất đầu tr thường chậm hơn lãi suất đầu vào.

Hai Quý đầu 2023 có thể chứng kiến lợi nhuận chung của ngành suy giảm do nền cao 2 quý đầu 2022. Việc này khiến P/E forward toàn thị trường trở trên không hấp dẫn (chúng tối khuyến nghị dùng định giá P/B trong giai đoạn hiện tại có độ tin cậy cao hơn).

Với đầu tư, đầu cơ cho các cổ phiếu trong ngành, chúng tôi đánh giá cao MBB cho cơ hội tăng trưởng dài hạn với hệ sinh thái hoàn chỉnh, tốc độ tăng trưởng cao sẽ tiếp tục duy trì nhờ tham gia tái cơ cấu ngân hàng, định giá tương đối hấp dẫn so lợi thế. Do đó, MBB phù hợp tích sản và đang nằm trong danh mục tích sản của chúng tôi. Lưu ý: dư nợ TPDN lớn và cần theo dõi, free float lớn khiến cổ phiếu khó tăng giá trong giai đoạn thị trường chưa được sự ủng hộ mạnh của dòng tiền. Với ngân hàng có câu chuyện riêng, chúng tôi chọn STB. Nhà đầu tư cần xem xét việc mua với chọn lựa vùng giá hợp lý để quản trị rủi ro khi cổ phiếu đã tăng mạnh từ đáy.

Ngành ngân hàng năm nay cần cẩn trọng trong đầu tư nhất là các ngân hàng đang có chất lượng nợ thấp (tỷ lệ nợ xấu và nhóm 2 cao), các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp. Các ngân hàng này sẽ gặp áp lực trích lập dự phòng mạnh trong các quý đầu năm. 

Một lưu ý khác, theo quan điểm của chúng, hiện tại tăng trưởng lợi nhuận của ngành ngân hàng năm nay được dự báo cả năm 2023 đi ngang. Dự báo này sẽ được đánh giá lại trên KQKD quý 1 để đánh giá chất lượng nợ bị ảnh hưởng và ảnh hưởng NIM. Với KQKD nhóm ngân hàng 2023, theo nhận định trên thì EPS toàn thị trường sẽ giảm trong 2 quý đầu năm; Tính chung cả năm cũng sẽ đi ngang.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Bật chế độ phòng thủ trong môi trường lãi suất cao https://kinhdoanhkhoinghiep.com/bat-che-do-phong-thu-trong-moi-truong-lai-suat-cao/ Tue, 14 Feb 2023 08:22:22 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=8351 Trước tình hình lãi suất cao, thanh khoản căng thẳng, rủi ro luôn rình rập, việc nhà đầu tư bật chế độ phòng thủ được xem là tốt nhất.]]>

Trước tình hình lãi suất cao, thanh khoản căng thẳng, rủi ro luôn rình rập, việc nhà đầu tư bật chế độ phòng thủ được xem là tốt nhất.

>> Vượt rủi ro thanh khoản năm 2023

Nhận diện rủi ro

Có thể nói, sự thắt chặt thanh khoản ở hệ thống ngân hàng trong thời gian qua bắt nguồn từ một số nguyên nhân như các trục trặc trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), cuộc đua tăng lãi suất và sự đóng băng của thị trường bất động sản (BĐS).

Nhiều ngân hàng đã phải tăng lãi suất huy động để bù đắp sự thiếu hụt về thanh khoản, dẫn đến lãi suất huy động tăng sốc trong các tháng 10, 11 và 12 của năm 2022

Nhiều ngân hàng đã phải tăng lãi suất huy động để bù đắp sự thiếu hụt về thanh khoản, dẫn đến lãi suất huy động tăng sốc trong các tháng 10, 11 và 12 của năm 2022

Trong bối cảnh đó, hệ thống ngân hàng sẽ phải tăng lãi suất huy động để bù đắp sự thiếu hụt về thanh khoản, dẫn đến lãi suất huy động tăng sốc trong các tháng 10, 11 và 12 của năm 2022. Khác với thế giới, lãi suất của thế giới đang tăng cao nhưng nguyên nhân thì không như của Việt Nam. Mỹ, EU hay các nước phương Tây tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát, đánh vào nhu cầu, nhằm giảm tổng cầu qua đó tạo ra sự cân bằng cung cầu mới để đưa giá cả đi xuống.

Còn ở Việt Nam, lạm phát được kiểm soát tốt chỉ ở mức 4%, thì lãi suất 6-7% là hấp dẫn, bởi đó là lãi suất thực dương. Tuy nhiên, lãi suất ở Việt Nam tăng cao là bởi dòng vốn bị chuyển dịch từ tiền mặt sang bất động sản (BĐS) khá lớn, điều này làm cho một lượng vốn trở nên mất thanh khoản. Kèm thêm bất ổn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp gây rủi ro cho các khoản vay BĐS trước đó tăng cao, buộc các ngân hàng phải tăng huy động để hút dòng tiền, nhằm cân bằng tình trạng thanh khoản.

Hiện tại tình trạng đã tạm ổn sau khi một lượng tiền gửi đã bị hút vào ngân hàng sau khi lãi suất tăng mạnh và sốc. Một số ngân hàng tư nhân lớn như TCB, SHB hay VPB đã tăng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng lên mức 9,0-9.5%, cao hơn cả các ngân hàng tầm nhỏ hơn như LPB, ACB hay TPB…

Sau khi hút được một lượng vốn lớn, các ngân hàng này tạm ổn nhưng rủi ro sẽ tiếp tục diễn ra khi kỳ hạn đáo hạn của các khoản vay BĐS hoặc TPDN không thể trả, hoặc đơn giản là một công ty BĐS nào đó tuyên bố mất khả năng thanh toán, không thể trả nợ, hoặc xin khất nợ. Và nếu đó là một công ty tầm cỡ, quy mô lớn thì khi đó rủi ro lại tiếp tục diễn ra, lãi suất lại có thể một lần nữa tăng cao. Nhưng rủi ro đó cũng có thể sẽ không diễn ra, khi các tập đoàn BĐS lớn đang kịch liệt tái cơ cấu, bán tài sản để trả nợ.

Năm 2022, có một lượng lớn TPDN đã được trả trước hạn làm giảm đi đáng kể áp lực này. Nhưng vẫn còn khoảng 10 tỷ USD trái phiếu cần phải thanh toán trong năm 2023. Nếu việc giãn nợ với các chủ nợ không thành công thì ngay lập tức, rủi ro cũng sẽ xảy ra. Đó là chưa nói tới rủi ro một vài chủ doanh nghiệp cỡ lớn có thể vướng vòng lao lý bởi những sai phạm, hay cuộc chiến Nga – Ukraine có bước ngoặt mới.

Như vậy, hệ thống ngân hàng đang đứng trước những rủi ro khá lớn, có thể xảy ra, hoặc cũng có thể tránh được, cơ hội và rủi ro lúc này đang có tỷ lệ tương đương nhau.

>> Vì sao hệ thống các TCTD đối mặt với rủi ro thanh khoản?

Bật chế độ phòng thủ

Nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì ở mức 9% như hiện nay, tức là lãi suất cho vay tối thiểu ở mức 12-14%/năm. Đây là một mức lãi suất khá cao, làm tổn thương tăng trưởng kinh tế. Ở mức lãi suất này, người dân sẽ hạn chế tiêu dùng, còn doanh nghiệp hạn chế đầu tư khiến tăng trưởng kinh tế cũng sẽ bị ghìm lại.

Khác với thế giới, lãi suất của thế giới đang tăng cao nhưng nguyên nhân thì không như của Việt Nam

Khác với thế giới, lãi suất của thế giới đang tăng cao nhưng nguyên nhân thì không như của Việt Nam

Như vậy, nếu lãi suất này tiếp tục ở mức cao, thì rủi ro cho nền kinh tế là lớn. Còn nếu lãi suất này đi ngang trong nửa đầu 2023 và suy giảm dần trong nửa cuối khi các tín hiệu trên thị trường quốc tế lẫn quốc nội được xoa dịu, mới có thể hy vọng tăng trưởng kinh tế bứt tốc. Do đó, rủi ro xảy ra là thu nhập ròng của các công ty sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.

Trong tình hình lãi suất cao, thanh khoản căng thẳng, rủi ro luôn rình rập, thì việc nhà đầu tư bật chế độ phòng thủ được xem là tốt nhất. Các biện pháp phòng thủ hợp lý có thể kể đến như:

Thứ nhất, gửi ngân hàng, với mức lãi suất 9%, thậm chí 10-11-12%, thì gửi tiết kiệm được xem là chiến lược phòng thủ tốt. Người gửi tiền không phải lo lắng về thanh khoản, về lãi suất, lại đảm bảo một khoản thu nhập hấp dẫn. Do đó, những nhà đầu tư yếu tâm lý, hoặc cần một biện pháp phòng thủ tốt, thì hãy luôn chú trọng vào kênh đầu tư này.

Thứ hai, đối với nhà đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư thích mạo hiểm và yêu thích cổ phiếu thì đa dạng hóa danh mục bằng cách rải đều ở nhiều ngành khác nhau sẽ giúp tối thiểu hóa rủi ro. Trong đó, ngành bảo hiểm được xem là ngành không bao giờ được bỏ sót.

Thực tế đã cho thấy, đây là ngành nghề duy nhất chống chọi được với thanh khoản căng cứng và lãi suất dâng cao bởi họ không có nợ vay. Thậm chí các doanh nghiệp bảo hiểm còn hưởng lợi rất lớn khi lãi suất dâng cao. Lãi suất tăng sẽ giúp cho hoạt động đầu tư tiền gửi, chiếm hơn 80% lợi nhuận của công ty bảo hiểm ăn nên làm ra. Do đó, ngành bảo hiểm sẽ sống khỏe.

Thứ ba, ai cũng thấy ngành ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhưng không phải khó với tất cả các ngân hàng. Áp lực sẽ lớn đối với những ngân hàng căng thanh khoản, đầu tư rất nhiều vào TPDN và cho vay rất lớn trong lĩnh vực BĐS. Ngược lại, những ngân hàng không bị ảnh hưởng bởi 2 vấn đề trên thì còn sống khỏe. Họ không gặp áp lực về thanh khoản dẫn đến NIM của ngân hàng vẫn ổn định và thậm chí cho vay liên ngân hàng còn khá hấp dẫn. Do đó, những ngân hàng này sẽ tiếp tục bay cao trong 2023. Có thể kể đến là VCB, ACB, STB hay LPB…

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>