Doanh nghiệp nhà nước – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com Trang thông tin kinh doanh & khởi nghiệp Mon, 22 Sep 2025 00:57:11 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhdoanhkhoinghiep/2025/08/kinhdoanhkhoinghiep.svg Doanh nghiệp nhà nước – Kinhdoanhkhoinghiep.com https://kinhdoanhkhoinghiep.com 32 32 Đề xuất lập quỹ nhà ở xã hội 5.000 tỷ đồng để đầu tư và quản lý nhà ở cho thuê https://kinhdoanhkhoinghiep.com/de-xuat-lap-quy-nha-o-xa-hoi-5-000-ty-dong-de-dau-tu-va-quan-ly-nha-o-cho-thue/ Mon, 22 Sep 2025 00:57:09 +0000 https://kinhdoanhkhoinghiep.com/de-xuat-lap-quy-nha-o-xa-hoi-5-000-ty-dong-de-dau-tu-va-quan-ly-nha-o-cho-thue/

Bộ Xây dựng đang đề xuất thành lập Quỹ nhà ở quốc gia, một tổ chức tài chính nhà nước chuyên biệt, với mục tiêu hỗ trợ và phát triển nhà ở xã hội trên toàn quốc. Theo đề xuất, Quỹ nhà ở quốc gia sẽ có vốn điều lệ ban đầu tối thiểu là 5.000 tỉ đồng, và sẽ tăng lên 10.000 tỉ đồng sau ba năm hoạt động.

Quỹ này sẽ hoạt động theo mô hình doanh nghiệp 100% vốn công, trực thuộc Bộ Xây dựng và UBND cấp tỉnh, nhằm đảm bảo sự quản lý và giám sát chặt chẽ của nhà nước. Mục tiêu chính của Quỹ nhà ở quốc gia là đầu tư xây dựng, quản lý và vận hành nhà ở xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu về nhà ở của người dân có thu nhập thấp và các đối tượng chính sách xã hội.

Về cấu trúc tổ chức, Quỹ nhà ở quốc gia sẽ được thành lập ở cấp trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương, Quỹ sẽ trực thuộc Bộ Xây dựng, giúp Bộ có thêm công cụ để thực hiện chính sách nhà ở xã hội một cách hiệu quả. Tại cấp địa phương, Quỹ nhà ở quốc gia sẽ trực thuộc UBND cấp tỉnh, cho phép các địa phương có thêm nguồn lực và cơ chế để phát triển nhà ở xã hội phù hợp với nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Việc thành lập Quỹ nhà ở quốc gia được kỳ vọng sẽ góp phần tăng cường hiệu quả của chính sách nhà ở xã hội, giúp nhiều người dân có thu nhập thấp và các đối tượng chính sách có cơ hội sở hữu nhà ở, cải thiện điều kiện sống và tăng cường an sinh xã hội. Tuy nhiên, việc triển khai Quỹ cũng đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nguồn lực, cơ chế hoạt động và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan.

Hiện tại, thông tin về Quỹ nhà ở quốc gia vẫn đang được Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan xem xét và thảo luận. Sau khi được phê duyệt, Quỹ sẽ có cơ sở pháp lý để triển khai hoạt động và đóng góp vào mục tiêu phát triển nhà ở xã hội, tạo điều kiện cho người dân Việt Nam sở hữu nhà ở an toàn và bền vững.

]]>
Đề xuất thuế căn nhà thứ hai để kìm hãm đầu cơ bất động sản https://kinhdoanhkhoinghiep.com/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-kim-ham-dau-co-bat-dong-san/ Mon, 28 Jul 2025 11:51:34 +0000 https://kinhdoanhkhoinghiep.com/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-kim-ham-dau-co-bat-dong-san/

Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vừa kiến nghị gửi tới Chính phủ và các bộ ngành liên quan về các vấn đề kinh tế đang được quan tâm hiện nay. Trong đó, đổi mới mô hình tăng trưởng để tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế là một trong năm vấn đề được NEU đề cập đến.

Cụ thể, các chuyên gia của NEU cho rằng, bên cạnh các giải pháp như tinh giảm hệ thống doanh nghiệp nhà nước và nâng cao chất lượng thể chế, tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống cũng là yếu tố quan trọng.

Theo đó, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và găm giữ bất động sản. Đây là nguyên nhân khiến tình trạng ‘đô thị ma’ xuất hiện, kéo theo sự khan hiếm nguồn cung trên thị trường thứ cấp. NEU đánh giá, khi chi phí sở hữu căn nhà thứ hai tăng lên do thuế, những chủ thể găm giữ sẽ có xu hướng sử dụng hiệu quả hơn bằng cách buộc phải bán bớt hoặc cho thuê, hoặc đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, giúp tăng nguồn cung và góp phần hạ nhiệt giá nhà trên thị trường, từ đó hỗ trợ thị trường bất động sản trở nên lành mạnh cũng như tránh lãng phí tài nguyên.

Thứ hai, sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng và đối mặt với nguy cơ các quốc gia như Mỹ áp đặt thuế quan cao. Theo các nhà nghiên cứu, mức giảm trừ gia cảnh chậm được điều chỉnh, không theo kịp lạm phát và chi phí sinh hoạt thực tế, cũng như bậc thuế quá sát nhau khiến nhiều người dân, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp phải chịu thuế ở mức cao ngay cả khi thu nhập chỉ vừa đủ để trang trải cuộc sống. Chính vì vậy, nếu điều chỉnh giảm sắc thuế này sẽ giúp tăng thu nhập khả dụng cho người dân, từ đó khuyến khích người dân tăng chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ trong nước và bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu.

Thứ ba, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá đây là một công cụ hiệu quả để phát triển công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các biến động thương mại toàn cầu. Thông qua việc chủ động nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm thiểu được rủi ro bị ảnh hưởng từ các chính sách thương mại quốc tế bất lợi, đảm bảo tính ổn định và bền vững cho hoạt động xuất khẩu.

Năm chủ đề được các chuyên gia NEU kiến nghị lên Chính phủ bao gồm: (i) Đổi mới mô hình tăng trưởng kết hợp cải cách thể chế nhằm tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế; (ii) Hoàn thiện tư duy và cách thức nhìn nhận khu vực kinh tế tư nhân; (iii) Cải thiện chất lượng đầu tư công hướng tới mục tiêu tăng trưởng trung hạn; (iv) Tăng cường phát triển nền kinh tế số và kinh tế xanh và (v) Phát triển các vùng kinh tế động lực nhằm tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.

Cũng tại bản kiến nghị, nhóm nghiên cứu NEU nhận định, từ năm 2011 đến nay, so với các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam còn tồn tại 3 hạn chế bao gồm: (i) có hiệu quả kinh doanh thấp nhất; (ii) có trình độ khoa học công nghệ thấp nhất và (iii) thu nhập của người lao động thấp nhất. Đối mặt với thực trạng khu vực kinh tế tư nhân đang có biểu hiện ‘chững lại’ về mặt tốc độ, nhóm nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần hoàn thiện chính sách thuế bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.

Thứ nhất, cần thực hiện nhanh chóng áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Theo các nhà khoa học NEU, mức thuế thu nhập doanh nghiệp phổ biến ở Việt Nam hiện nay là 20%. Tuy nhiên, thông qua các chính sách ưu đãi, khu vực FDI được hưởng mức thuế suất trung bình vào khoảng 12%, đồng nghĩa chênh lệch khoảng 2,7% so với thuế tối thiểu toàn cầu.

Thứ hai, phải giải quyết hợp lý vấn đề liên quan đến chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Theo đó, cần ngăn chặn hiện tượng các doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh có lãi tại Việt Nam nhưng tìm cách chuyển thành chi phí nguyên nhiên vật liệu, thiết bị, tài sản trí tuệ, dịch vụ nhập khẩu với giá khá cao. Trong đó, người xuất khẩu chính là công ty mẹ ở nước ngoài để có được khoản thu lời lớn.

Cuối cùng, xóa bỏ tình trạng trốn thuế của các doanh nghiệp FDI thông qua chính sách chuyển giá bất hợp lý. Nhóm nghiên cứu NEU cho rằng cơ quan chức năng cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phòng chống trốn và tránh thuế đang áp dụng tại các nước tiên tiến để giải quyết vấn đề trên.

Từ năm 2011 đến nay, lợi nhuận trước thuế bình quân của một doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 0,52% của doanh nghiệp nhà nước và gần 3,1% của doanh nghiệp FDI, đồng thời năng suất lao động chỉ bằng 34% năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khoảng 69% năng suất lao động của khu vực FDI. Bên cạnh đó, theo số liệu từ Cục Thống kê (2023), nếu xét các doanh nghiệp chế biến chế tạo khu vực tư nhân hiện nay, tỷ lệ sử dụng công nghệ lần lượt là 12%, 23% và 56% (cao, trung bình và thấp). Ngoài ra, thu nhập bình quân của người lao động doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 57,1% doanh nghiệp nhà nước, 78,4% doanh nghiệp FDI.

]]>
Kiểm toán Nhà nước chỉ rõ loạt sai sót của doanh nghiệp Nhà nước https://kinhdoanhkhoinghiep.com/kiem-toan-nha-nuoc-chi-ro-loat-sai-sot-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc/ Thu, 24 Jul 2025 09:06:05 +0000 https://kinhdoanhkhoinghiep.com/kiem-toan-nha-nuoc-chi-ro-loat-sai-sot-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc/

Kết quả kiểm toán doanh nghiệp nhà nước cho thấy nhiều tập đoàn, tổng công ty có khoản lỗ lớn. Kiểm toán Nhà nước vừa báo cáo Quốc hội về kết quả kiểm toán chủ yếu năm 2024. Theo đó, kết quả kiểm toán doanh nghiệp nhà nước cho thấy 9/9 tập đoàn, tổng công ty được kiểm tra đều có lãi, một số đơn vị đạt tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu trên 10%, thậm chí vượt 20%. Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.

Phần lớn các đơn vị còn sai sót trong công tác hạch toán, kê khai nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Qua kiểm toán, điều chỉnh tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí. Một số đơn vị chưa xây dựng quy chế quản lý tiền, quản lý dòng tiền chưa hiệu quả. Việc quản lý nợ chưa chặt chẽ, còn phát sinh nợ phải thu quá hạn, khó đòi lớn. Tỷ lệ đối chiếu thấp. Trong khi đó, việc tạm ứng tồn đọng nhiều năm chưa thu hồi; bán hàng, đặt cọc cho nhà cung cấp không có bảo lãnh, tài sản đảm bảo; trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi không đúng quy định…

Bên cạnh đó, hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cao; chưa chi trả đầy đủ cổ tức; chưa được góp đủ vốn điều lệ hoặc có vốn chủ sở hữu lớn hơn vốn điều lệ nhưng chưa được phê duyệt phương án tăng vốn. Thậm chí, một số đơn vị bị đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt. Kết quả kiểm toán cũng cho thấy một số đơn vị đầu tư tài chính hiệu quả chưa cao, hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ.

Cụ thể, Công ty mẹ – TKV có 4 khoản đầu tư vào công ty con có lỗ lũy kế tại thời điểm 31/12/2023 là hơn 412 tỷ đồng. Vốn góp của công ty mẹ là hơn 1.759 tỷ đồng. Tổng công ty khoáng sản TKV có 1 khoản đầu tư không bảo toàn vốn và 3 khoản đầu tư vào công ty con chưa chia cổ tức do lợi nhuận sau phân phối không đủ chia cổ tức hoặc có lãi nhưng còn lỗ lũy kế.

Công ty mẹ – HUD có Công ty CP Đầu tư xây dựng đô thị Việt Nam lỗ lũy kế 14,4 tỷ đồng… Nhiều khoản đầu tư của tập đoàn, tổng công ty vào công ty liên doanh, liên kết, đầu tư dài hạn khác bị thua lỗ. Cụ thể, Công ty mẹ – Vinapharm có CTCP Dược phẩm Trung ương 2 ghi nhận lỗ lũy kế hơn 122 tỷ đồng tính đến 31/12/2023. CTCP Dược Davina lỗ 18,39 tỷ đồng.

Công ty mẹ – HUD có CTCP Sài Gòn – Rạch Giá lỗ lũy kế gần 124,5 tỷ đồng. CTCP Khách sạn và du lịch Bảo Việt lỗ hơn 73 tỷ đồng. Công ty mẹ – Vinataba có 3/6 công ty liên doanh, liên kết lỗ lũy kế 225,6 tỷ đồng và một khoản đầu tư dài hạn khác là 13,18 tỷ đồng.

Tổng công ty Sonadezi có CTCP Cấp nước Đồng Nai đầu tư góp vốn vào CTCP Cấp nước Gia Tân 50 tỷ đồng. Chiếm 10,47% vốn điều lệ, phải trích lập dự phòng 16,47 tỷ đồng. Công ty mẹ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) có một khoản đầu tư phải trích lập dự phòng 100% tương ứng 55,87 tỷ đồng.

Ngoài ra, kết quả kiểm toán Chuyên đề việc thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu theo quy định Nghị định số 10/2019/NĐ-CP giai đoạn 2022-2023 tại Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLVNN) cho thấy, đến tháng 8/2024 còn 3/19 đề án cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025. Hai/19 kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư giai đoạn 2021-2025 và 4/19 chiến lược phát triển của các doanh nghiệp chưa được phê duyệt.

Có đến 10/12 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa được đánh giá, xếp loại năm 2023 và 1 doanh nghiệp chưa được đánh giá, xếp loại năm 2022. Chưa hoàn thành phê duyệt quyết toán cổ phần hóa theo quy định. Đáng chú ý, theo báo cáo tài chính năm 2023 của các đơn vị, lỗ lũy kế tại ngày 31/12/2023 của Tổng công ty Cà phê Việt Nam là 738,8 tỷ đồng. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lỗ lũy kế 50.611 tỷ đồng. Tập đoàn Hoá chất Việt Nam lỗ lũy kế 884,39 tỷ đồng.

Kết quả kiểm toán chuyên đề tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cũng cho thấy, SCIC đã thoái vốn tại 37/77 doanh nghiệp với tổng giá vốn là 2.801/12.821 tỷ đồng. Bằng 21,8% kế hoạch 5 năm trong giai đoạn 2021-2023. SCIC đã bán hết vốn tại 50 doanh nghiệp nhưng chưa thu hồi hết cổ tức, lợi nhuận được chia 23,8 tỷ đồng.

Ngoài ra, quá trình bán vốn còn trường hợp xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính giá trị vốn nhà nước không đúng quy định hoặc đơn vị tư vấn xác định chưa đầy đủ giá trị vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Một số khoản SCIC trực tiếp đầu tư cũng không hiệu quả. Khi có 3/14 doanh nghiệp lỗ lũy kế tại ngày 31/12/2023 là 32.581,9 tỷ đồng; 2/14 doanh nghiệp không chia cổ tức, lợi nhuận trong giai đoạn 2019-2023.

SCIC chưa hoàn tất cổ phần hóa tại một số đơn vị. Chưa tiếp nhận đầy đủ quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 5 doanh nghiệp do hai bộ bàn giao; chưa xây dựng kế hoạch và giải pháp thực hiện tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tại một số doanh nghiệp tiếp nhận. Đến 31/12/2023, SCIC chưa phê duyệt chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm giai đoạn 2021-2025 của 4/4 doanh nghiệp do đơn vị này nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Việc xây dựng phương án tăng vốn điều lệ trình cấp có thẩm quyền của SCIC cũng chưa đầy đủ, rõ ràng; người đại diện vốn lập và gửi báo cáo giám sát tài chính chậm. Một số quy định liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của UBQLVNN và SCIC chưa thống nhất như việc bổ sung vốn, thoái vốn tại công ty con, công ty liên kết; vốn nhà nước, vốn doanh nghiệp tại các doanh nghiệp do SCIC nhận bàn giao.

]]>